Bài viết chia sẻ về cuộc sống người
làm toán ở Việt Nam từ những chiêm nghiệm cá nhân của Tiến sĩ toán Mai Huy Tân
- Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thực phẩm Đức Việt đã được
lưu truyền trên mạng, BlogE xin giới thiệu tới bạn đọc.
22 năm học toán và làm toán
Khi tôi còn là học sinh cấp 3 ở Hà Nội, Việt Nam chưa có lớp chuyên toán. Tôi nhớ khi đó tôi được trường phổ thông 3A Hà Nội chọn và cho đi dự ngoại khóa toán một số chuyên đề dành cho học sinh giỏi như: “hình học phi Ơclit” (do thầy Lê Văn Thiêm giảng) hay chuyên đề “Nhập môn lý thuyết tập hợp” (do cô Hoàng Xuân Sính giảng). Năm 1966, tôi vào học năm thứ nhất, khoa toán, Đại học Tổng hợp Hà Nội, nhưng khi đó do chiến tranh phá hoại, nên trường sơ tán tại huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên).
Cũng năm đó, GS. Tạ Quang Bửu, khi đó là Bộ trưởng Bộ Đại học và THCN cho thành
lập các lớp phổ thông chuyên toán thuộc khoa toán, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tôi
vẫn còn nhớ một vài bạn học sinh phổ thông chuyên toán đầu tiên thời ấy cũng
học ở nơi sơ tán, như bạn Nhung, bạn Kiếm, bạn Hùng, bạn Quát, bạn Thi… Các bạn
đó sau khi tốt nghiệp phổ thông, có người được đi học đại học ở nước ngoài,
nhưng phần lớn đều trở thành sinh viên khoa toán, Đại học Tổng hợp ở nơi sơ tán
như tôi.
Suốt những năm học toán ở Đại Từ, sinh viên không biết tới đèn điện là gì, ăn
sáng trước khi lên lớp là một thứ xa xỉ mà sinh viên ít khi dám mơ tới, thầy và
trò học toán cao cấp dưới mái tranh tre nứa lá.
Hồi ấy, cũng trong điều kiện gian khổ của chiến tranh, chúng tôi còn được nghe
GS. Grothendieck, nhà toán học người Pháp đoạt giải thưởng Fields, giảng về lý
thuyết Topo đại số, mà trên đầu ông vẫn đội chiếc mũ rơm do GS. Lê Văn Thiêm
tặng (ông chấp nhận lời mời của Việt Nam sang trao đổi toán học và giảng dạy toán
tại Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh rất ác liệt)…
Giờ đây, tôi vẫn ghi nhớ công ơn các thầy Lê Văn Thiêm, Hoàng Tuỵ, Phan Đức
Chính, Hoàng Hữu Đường và các thầy khác đã dạy chúng tôi nên người. Và tôi vẫn
cho rằng tiền bạc, cơ sở vật chất là quan trọng, nhưng không phải yếu tố quyết
định hàng đầu đến chất lượng giáo dục, mà là THẦY và TRÒ. THẦY giỏi, yêu nghề
và hết lòng vì học sinh, TRÒ chăm chỉ, say mê khoa học mới là những yếu tố quan
trọng nhất và quyết định nhất.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân toán của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1970,
tôi được nhận công tác tại Phòng Toán kinh tế – Bộ Điện và Than. Ngay khi mới
ra trường, tôi đã theo chân các bậc đàn anh như anh Thái, anh Thiều hăng hái
xuống thực tế để làm các đề tài nghiên cứu toán ứng dụng như: xây dựng các hàm
sản xuất trong điều độ tại mỏ than Cọc Sáu, sơ đồ PERT trong đại tu lò hơi nhà
máy điện Yên Phụ…
Một số nghiên cứu ban đầu còn đang dở dang thì tôi nhập ngũ vào tháng 9-1971,
tham gia mặt trận Quảng Trị 1972, và công tác tại Cục Quản lý xe máy, Tổng cục
Hậu cần – Bộ Quốc phòng từ năm 1973.
Lúc đó, cũng như ông Ngô Huy Cẩn (thân sinh GS. Ngô Bảo Châu), các cán bộ khoa
học, dù là cử nhân hay tiến sĩ, đều gia nhập quân đội với lon binh nhì và phụ
cấp 5 đồng một tháng.
Khi tôi còn ở trong quân ngũ, Cục trưởng Cục Quản lý xe Vũ Văn Đôn đã gọi tôi
đến để trình bày xem ứng dụng toán kinh tế như thế nào. Rồi tôi cũng đề xuất và
được cử đi làm đề tài ứng dụng toán kinh tế trong hợp lý hóa chi phí sửa chữa
xe máy tại nhà máy Z151…
Sau khi rời quân ngũ, tôi được trở về công tác tại Phòng Toán kinh tế – Bộ Điện
& Than. Thời kỳ đó, toán kinh tế rất được chú trọng, đặc biệt trong nghiên
cứu và ứng dụng. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cho thành lập Viện Toán kinh tế
trực thuộc Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Viện điều khiển học, trong đó có điều
khiển học kinh tế, cũng được thành lập.
Chúng tôi thường hăng hái say mê tham dự các seminar khoa học ở Viện Toán học,
Viện Toán kinh tế, Viện Điều khiển học… Các đề xuất nghiên cứu ứng dụng như:
ứng dụng toán học trong cân bằng năng lượng, xây dựng các hàm sản xuất phục vụ
cân đối dây chuyền khoan – nổ – xúc – tải ở các mỏ than lộ thiên… đều được Bộ
Điện & Than tạo mọi điều kiện để các cán bộ toán kinh tế trẻ tuổi chúng tôi
nghiên cứu triển khai.
Rồi sau đó tôi thi đỗ nghiên cứu sinh và được cử sang làm luận án tại Trường
Đại học Tổng hợp Martin Luther, thành phố Halle, CHDC Đức. Bộ môn toán ứng dụng
trong kinh tế của trường này (thuộc Khoa Kinh tế) do GS. Lassmann là chủ nhiệm
bộ môn, ông cũng là người thầy trực tiếp hướng dẫn luận án cho tôi.
GS. Lassmann có quan hệ khoa học mật thiết với GS. Toán học Leonid Kantorovich,
Viện sĩ Viện hàm lâm khoa học Liên Xô (ông là Giáo sư toán nhưng được trao giải
thưởng Nobel kinh tế vì những công trình toán ứng dụng cho nghiên cứu kinh tế).
Tôi có vinh dự được gặp Giáo sư Viện sĩ Kantorovich trong một hội nghị khoa học
về toán kinh tế ở CHDC Đức do GS. Lassmann tổ chức.
Năm 1986, tôi bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài “Các phép toán tối ưu ứng dụng
trong lập kế hoạch sản xuất xí nghiệp công nghiệp…” và được hội đồng khoa học
chấm điểm Summa cum laude (xuất sắc).
Do đó, GS. Lassmann đã đề nghị với Đại sứ quán Việt Nam để tôi được làm tiếp
Habilitation (tiến sĩ khoa học), nhưng tiếc là lời đề nghị này không được đáp
ứng, và tôi trở về nước năm 1986. Khi đó Phòng Toán máy tính Bộ Điện & Than
đã không còn nữa sau những lần thay đổi tổ chức. Tôi đã thử tìm cách xin về
Phòng Toán kinh tế thuộc Uỷ ban phân vùng kinh tế Nhà nước để có điều kiện tiếp
tục các hoạt động nghiên cứu ứng dụng toán kinh tế, nhưng nguyện vọng này không
được chấp nhận, vì Bộ Đại học nhất quyết phân công tôi trở về nhận công tác tại
Bộ Năng lượng, là nơi đã cử tôi đi nghiên cứu sinh.
Thế là tôi chấp hành sự phân công của tổ chức và nhận công tác tại Trung tâm
Thông tin KHKT, Bộ Năng lượng, với nhiệm vụ chính là dịch thuật và chọn lọc
thông tin. Sau đó, tôi cố đề xuất và được Bộ giao cho chủ trì một đề tài khoa
học “Ứng dụng các phương pháp toán kinh tế để xây dựng và lượng hóa mối tương
quan giữa giá điện, giá than với giá các sản phẩm chủ chốt khác của nền kinh tế
quốc dân, làm cơ sở xây dựng chính sách giá năng lượng”. Đề tài được nghiên cứu
hơn một năm, nhưng rồi kết quả cũng bỏ đấy, vì không có khả năng ứng dụng.
Năm 1988 là một thời điểm rất khắc nghiệt của giai đoạn đầu thời kỳ đổi mới.
Tại cơ quan tôi công tác, Bộ cắt bớt một nửa quỹ lương, nên cơ quan phải tự làm
kế hoạch 3 để lo lương cho một nửa số cán bộ còn lại. Với ý thức tự trọng của
một nhà khoa học và tâm đắc với lời kêu gọi “hãy tự cứu mình trước khi trời
cứu” của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, tôi tự nguyện xung phong vào số phải tự
lo lương bằng các hoạt động khác, đương nhiên là “phi toán học”.
Bỏ
nghề toán, theo các nghề phi toán học
Hoạt động đầu tiên của tôi là dịch thuật và xuất bản sách. Nhờ các kiến thức và
khả năng ngoại ngữ nên những cuốn sách đầu tiên về marketing, kinh tế thị
trường hay tin học đều bán chạy, mang lại doanh thu và lợi nhuận.
Nhưng rồi Bộ Năng lượng cũng không còn tồn tại nữa khi sáp nhập với các bộ khác
thành Bộ Công nghiệp. Tôi lại phải tự tìm lấy chỗ đứng của mình khi cùng với
một số bạn bè trí thức học ở Đức về tự lập ra Trung tâm giao lưu Việt – Đức về
văn hóa, ngôn ngữ và công nghệ (ZKST). Trung tâm này đã chủ động thiết lập quan
hệ với Đại sứ quán CHLB Đức, Viện Goethe ở Munich, Viện Max Planck và nhiều tổ
chức khoa học, trường đại học của Đức, qua đó đã triển khai được nhiều hoạt
động giao lưu văn hóa khoa học mà không cần lệ thuộc vào nguồn ngân sách nhỏ bé
của cơ chế xin – cho.
Dần dần mạng lưới quốc tế mà tôi kiên trì từng bước xây dựng đã dẫn tôi tới một
nghề mới: tư vấn đầu tư cho các công ty của Đức ở Việt Nam (Mercedes
Benz: công nghiệp ô tô, FER: công nghiệp phụ trợ, PETKUS: công nghiệp xử lý hạt
giống và xử lý nước thải…).
Quá trình tư vấn đầu tư, cũng là quá trình học hỏi kinh nghiệm phong phú của
các nhà quản lý Đức, đã dẫn tôi tới một nghề mới: nghề kinh doanh và tự mình
trở thành doanh nhân. Năm 2000, tôi cùng một vài người bạn (Đức và Việt Nam)
lập ra Công ty TNHH Đức Việt và bắt đầu thử nghiệm sản xuất xúc xích Thueringen
của Đức.
Sự thành công ban đầu đã dẫn tới sự ra đời của Công ty liên doanh Đức Việt với
một nhà máy chế biến xúc xích ở tỉnh Hưng Yên. Năm 2008, chuyển thành Công ty
cổ phần thực phẩm Đức Việt chuyên sản xuất và cung cấp thực phẩm sạch, trong đó
có các loại xúc xích Đức với thương hiệu “THỰC PHẨM ĐỨC VIỆT” nhiều năm được
bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao, được trao Cúp Tự hào thương hiệu
Việt và Danh hiệu Sao Vàng Đất Việt.
Thay lời kết
Qua câu chuyện kể về 22 năm học toán và làm toán, rồi hơn 20 năm phải bỏ nghề
toán và nhiều lần chuyển nghề, chắc các bạn cũng có thể chia sẻ suy tư của tôi
về nguyên nhân các nhà toán học ở Việt Nam lại gặp nhiều khó khăn đến vậy trong
phát triển nghề nghiệp của mình, cả trong nghiên cứu lý thuyết lẫn trong nghiên
cứu ứng dụng.
Vào dịp kỷ niệm 50 năm khoa toán cơ tin học, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học
Quốc gia Hà Nội (tức khoa toán Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây), GS. TSKH.
Phạm Kỳ Anh, Chủ nhiệm khoa, có đề nghị tôi phát biểu và đọc báo cáo tại lễ kỷ
niệm tổ chức ở Nhà hát lớn Hà Nội.
Tôi ngại ngùng từ chối vì đã bỏ nghề toán lâu rồi. Nhưng GS. Phạm Kỳ Anh nói
rằng, chính đặc điểm đó của tôi là lý do ông muốn mời tôi phát biểu với hàm ý
rằng người học toán, có tư duy toán học, có thể thành công không những trong
lĩnh vực toán học, mà còn cả trong những lĩnh vực khác, ví dụ kinh tế hoặc kinh
doanh. Còn GS. Phan Văn Hạp (nguyên Chủ nhiệm khoa Toán Đại học Tổng hợp Hà
Nội) thì nói đùa rằng: khoa ta có hai Đức Việt, anh Hồ Đức Việt là Ủy viên Bộ
Chính trị, còn anh Tân Đức Việt là doanh nhân sản xuất xúc xích.
Cuối cùng tôi muốn nhắn nhủ một điều với các bạn trẻ: hãy yêu toán, học giỏi
toán thì các bạn nhất định sẽ thành công trong cuộc sống.(MHT)
Học giỏi toán, yêu toán, nhưng đừng gắn bó với toán. Đó là kinh nghiệm thành công trong cuộc đời của TS toán Mai Huy Tân trên đất nước Việt Nam. Cần phổ biến kinh nghiệm này cho con cháu chúng ta.
Trả lờiXóaÔng Tân Đức Việt bỏ toán đi sản xuất xúc xích, vẫn ít nhiều liên quan đến toán học. Còn anh E chuyên toán NXH bỏ toán, bỏ nghề kĩ sư sang làm báo và đặc biệt là thành nhà văn nổi tiếng ... có liên quan gì đến toán đâu nhỉ. Em cũng có thể rút ra kết luận: Muốn trở thành nhà văn nổi tiếng, hãy học giỏi ...Toán!
Trả lờiXóa(Hoài Thu)
Em thì thấy các bác chuyên toán giỏi nhiều thứ: Giỏi toán là đương nhiên, giỏi thơ văn, giỏi báo, giỏi kinh tế,quân sự..., đặc biệt giỏi món YÊU (yêu thiên nhiên, đất nước, con người...),ngưỡng mộ và đáng học tập!
Xóa