31 tháng 3, 2013

Tưởng nhớ Hữu Loan

Hữu Loan là một nhà thơ đích thực của nền thơ 
hiện đại VN. Ðích thực bởi thơ. Chỉ bằng hai bài
Màu tím hoa sim và Ðèo Cả, Hữu Loan đã ghi danh mình cho thơ Việt ở sự riêng tư và mới mẻ. Hai bài thơ khắc ghi dấu ấn rất riêng của Hữu Loan vào một thời thơ. Thơ, chứ không phải cái gì khác, đã làm nên Hữu Loan, đã vinh danh ông. Những nhát thơ Hữu Loan đục vào thời gian, đục vào tâm khảm, để lại dấu tích không phai.
Ông đã sống một cuộc đời dài, thật dài, mà những khổ nạn, thử thách chỉ càng làm bền thêm trong ông những lựa chọn ban đầu khi làm cách mạng và làm thơ. Bỏ phố thị thủ đô về lại quê hương, tự tay vỡ đất vỡ đá lầm lụi tháng ngày nuôi vợ con, nuôi mình chống chọi với cuộc sống thiếu thốn vất vả và nhiều chướng ngại, nhưng ông không nề hà, nản chí.
Hữu Loan là một con người cương cường. Ai đã một lần gặp ông, nhìn ngắm khuôn mặt ông, nhất là đôi mắt, và nghe giọng ông nói đều có thể cảm nhận đây là một con người không chịu gục ngã trước thử thách. Trời đã cho ông sức khỏe và ý chí để thọ cao đến vậy sau bao khổ nhọc chồng chất. Nhưng tôi tin trời thương ông nên đã ban thơ cho ông để ông sống được là mình như vậy. Ông mất ngày 18 tháng 3 năm 2010, hưởng thọ 95 tuổi. Nhân ngày giỗ ông (mặc dù đã chậm 2 tuần) Blog E giới thiệu  lại bài hồi ức của ông để bạn đọc hiểu thêm về một nhà thơ Việt Nam đích thực. (NCT)
MÀU TÍM HOA SIM
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ duyên được cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người, nhờ ông mà năm 1938 - lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi - tôi chơi ngông vác lều chõng ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo tự học cũng có thể đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi chẳng có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài Pháp thời đó rất khó khăn. Số người đỗ trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5, 6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những cậu khóa ấy, trong số có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuân, Đỗ Thiện và tôi... (theo Lê Thọ Bình, báo Pháp Luật số Xuân Giáp Thân)
Với mảnh bằng tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà Tham Kỳ chú ý, vời về nhà dạy kèm cho hai đứa con nhỏ. Tên thật của bà Tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, bà Tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt đến (theo Lê Thọ Bình, báo đã dẫn).
Bà Tham Kỳ là một người hiền lành tốt bụng, đối xử với tôi rất đàng hoàng tử tế, coi tôi chẳng khác người nhà. Nhớ lại ngày đầu tiên khoác áo gia sư, bà gọi mãi, đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đó nhưng ít nói và mỗi lần mở miệng là cứ y như một «bà cụ non». Đặc biệt em chăm sóc tôi hàng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng ướt em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt...
Có lần tôi kể chuyện "bà cụ non" ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em dỗi! Suốt một tuần liền, em nằm lì ở buồng trong, không chịu học hành... Một hôm bà Tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện cho em nghe; rồi tôi đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy, ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: «Mới ốm dậy, còn yếu lắm, không đi được đâu!» Em không chịu, nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà Tham Kỳ đưa em lên núi chơi...
Xe kéo chạy chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc con, tôi đuổi theo muốn đứt hơi! Lên tới đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời. Không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên, đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen nhánh, chín mọng.
- Thầy ăn đi!
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng và trầm trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật chưa bao giờ tôi được ăn những quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà Tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi... Lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi... Tôi quay đầu nhìn lại... Em vẫn đứng yên đó...Tôi lại đi và nhìn lại cho tới khi không còn nhìn thấy em nữa...
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi có nhận được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 đã có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ...
Chín năm sau, tôi trở lại nhà... Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp...
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không «môn đăng hộ đối» một chút nào. Mãi sau mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm «soạn kịch bản».
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, «không đòi may áo mới trong ngày hợp hôn», bảo rằng là: «Yêu nhau, thương nhau cốt cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả». Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay lại... đẹp giai nên em thường gọi đùa là ông chồng độc đáo.
Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi đi thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ đây em không còn là cô bé Ninh nữa mà đã là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, tôi lại quay đầu nhìn lại... Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ cảm thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồng (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lấy tấm áo bị nước cuốn đi nên trượt chân té xuống sông chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em đi vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại cho tôi nỗi đau không gì có thể bù đắp nổi! Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.
Nỗi đau ấy tôi phải giấu kín trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn... Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm tư gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong tôi được dịp bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng. Hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi, chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh...
... Tôi về không gặp nàng...
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Anh bạn này đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh.Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.Đến đây, chắc bạn đọc đã biết tôi là Hữu Loan, 
Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916, hiện tại đang "ở nhà trông vườn» ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ «quê đẻ của tôi đấy» thuộc Xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi mới viết nổi những câu: chiều hành quân/ qua những đồi hoa sim /những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài trong chiều không hết /màu tím hoa sim /tím chiều hoang biền biệt và chiều hoang tím có chiều hoang biết/ chiều hoang tím tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội; từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi «hay cãi, thích chống đối, không thể làm những gì trái với suy nghĩ của tôi». «Bọn họ» nhiếc móc, chê tôi ủy mị, hoạnh họe tôi đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Tôi chẳng cần, mặc kệ họ! Tôi thương, tôi nhớ Hoa Sim của tôi quá rồi! Với lại, tôi cũng đã chán ngấy cái mặt nạ yêu nước của «bọn họ» rồi!
Tôi về quê họ chẳng buông tha, theo dõi quản thúc, thường xuyên kiếm chuyện gây khó dễ tôi cũng chẳng cần biết! Dù gian khổ và chết hụt nhiều lần, tôi nhất định không chịu quỵ lụy. Làm thơ phải có cái tâm mà phải là cái tâm linh thật thiêng liêng thì mới có thơ hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì!  Tôi khóc người Vợ tử tế với mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó khóc như vậy, họ cho là khóc cái tình cảm riêng... Y như trong Thơ nói đấy: tôi lấy vợ rồi đi Bộ đội, mới lấy nhau được có hơn tháng, ở nhà Bà ấy đi giặt rồi chết đuối ở sông... Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc. Bài thơ ấy lúc bấy giờ họ cho là phản động. Cái đau khổ riêng của con người tại sao lại không được khóc!?
Bọn họ xúc phạm đến danh dự và tình cảm thiêng liêng của người Vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ Ðảng, bỏ Cơ quan về thẳng nhà để đi cày. Bọn họ không cho bỏ, bắt tôi phải viết đơn xin. Tôi không xin... Tôi có cái tự do của tôi, cái chuyện bỏ Ðảng, tôi muốn bỏ là tôi bỏ không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày, đi bừa, đi thồ, đi đốn củi đưa về, đi xe đá để bán, bọn họ phá tôi đủ cách, bắt giữ xe đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ phía trước, có hai càng phìa sau thùng gỗ để đủn hay kéo đi. Xe cút kít họ cũng không cho, cấm không ai được bán bánh xe cho tôi nữa. Có lần tôi phải gánh bộ, gánh bằng vai tôi cũng cứ nhận. Tôi cứ gánh tôi làm, không bao giờ tôi chịu khuất phục. Thế mà họ cũng theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an mật đi theo dõi, cho người theo hại tôi... Nhưng mà lúc nào cũng như có người cứu tôi! Có một cái lạ là chính Thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên mật vụ nói thật với tôi là được giao lệnh giết tôi nhưng nó là cái thằng rất yêu Quê hương, nhớ Quê nhà. Nó thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Ninh Bình của nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy không nỡ giết tôi.
Ngoài bài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến nỗi không có đến cái chiếu mà nằm!
Chiếc chiếu
Có ai thấy một người cha
Từng buổi, từng buổi
Trước tủ kính cửa hàng Mậu dịch dòm như nổ mắt
Tì mũi dẹp như quả bóng xuống hơi
Thầm đọc đi đọc lại giá hàng từng thứ đồ chơi
Dù nhiều lần đã hạ giá
Trong óc nổi bòng bong từng mớ
Những cơm đến gạo đến quần đến áo
Ðôi chiếu nằm rách từ giữa rách ra
Tục ngữ nói rằng những chiếc nhà dột từ nóc trên dột xuống
Từng sáng mai nhìn gầm giường
Ðốt cói rụng đầy như chiếu rụng đốt xương
Gió thổi từ dưới thổi lên
Muỗi cũng đốt từ dưới đốt lên
Nhưng con đái dầm lại tiện
Ròng rã mười năm kháng chiến
Cầm vững hai tay
Một cái tình thần
Choảng nhau với súng với bom
Gian khổ còn ư ?
Bố con ta lại vung cái tinh thần như tráng sỹ vung gươm
Chong chóng không quay
Con vứt đi phụng phịu
Sáng kiến làm đồ chơi
Bố thì không thiếu
Bố lại lấy lá dứa vận cho con cái kèn
Bố thổi nó kêu lên tò he. Tò he
Con đắc trí giật kèn đi thổi khắp Ô Kim Mã
Tò he. Tò he
Như một thiên sứ Hài đồng
Xuống lệnh điềm tin
Tò he. Tò he
Nhớ truyện Ðông Chu
Sao đỏ, sao đen
Tò he. Tò he
Cuộc đời đẩy đưa, định mệnh dắt tôi đến với một người phụ nữ khác, sống cùng tôi đến ngày hôm nay. Bà tên Phạm Thị Nhu, cũng là một người phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Bà vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố điền chủ của Việt Minh.
Nhớ lại, lúc đó, tôi còn là chính trị viên tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, hiểu biết luân thường đạo lý, lại có tâm hồn nghệ sĩ, nên tôi cảm thấy chán nản quá.  Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng!
Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa tôi ở độ mười lăm cây số, có một gia đình địa chủ rất giầu, nắm trong tay gần năm trăm mẫu tư điền. Ông địa chủ giầu lòng nhân đạo, rất yêu nước thương người. Ông thấy bộ đội sư đoàn 301 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo tới chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là Trưởng Phòng Tuyên Huấn và Chính Trị nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông ta, đồng thời đề nghị lên Sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Riêng tôi rất quý mến và luôn luôn nhớ đến ông. Thế rồi một hôm tôi nghe tin gia đình ông ấy bị đấu tố. Hai vợ chồng bị đội đấu tố mang ra cho dân sỉ vả, nhục mạ, rồi chôn xuống đất để hở có cái đầu lên thôi. Xong, họ cho trâu kéo bừa qua lại hai cái đầu cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ xấu số chỉ còn có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội đấu tố đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo. Dã man hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm dân chúng cả việc lấy các con cái của địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương giáng xuống gia đình ông bà địa chủ mà tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái của họ sinh sống ra sao, vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé mỗi buổi chiều cứ lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt...
Lúc gần tới nơi, may sao tôi gặp cô ta áo quần rách mướp, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom tìm lượm vài củ khoai mà dân bỏ sót nhét vào túi áo, rồi chùi vội một củ vào quần đưa lên miệng gặm. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi lại gần hỏi thăm và được cô ta kể lại rành rọt hôm cha mẹ cô bị đấu tố chết ra sao. Cô ta khóc mếu nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hàng ngày cô phải đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong cái miếu hoang; cô rất đói khổ lo lắng, không biết ngày mai còn sống hay sẽ chết vì đói khát! Tôi nghe mà lấy làm thương tâm quá, trong lòng vô cùng xúc động. Suy nghĩ rất nhiều, tôi quyết định đem cô ta về quê tôi, rồi bất chấp lệnh cấm, tôi đã lấy cô ta làm vợ. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm. Khi xưa, quê tôi nghèo, nhà tôi cũng nghèo, tôi lại còn ở trong bộ đội nên không có tiền. Nhưng hai vợ chồng cố gắng chịu đựng đùm bọc nhau bữa đói bữa no... Cho đến ngày nay, bà ấy đã cho tôi 10 người con ngoan, 6 trai, 4 gái và cháu nội cháu ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày hốt đá đi bán, túi dắt theo vài quyển sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi cởi mở, tôi được tụi nó ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm.
Năm 1988, tôi “tái xuất” giang hồ sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nhà đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do Hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.
Dọc đường đất nước trên chuyến đi, tôi đã đọc cho công chúng nghe trong những lần gặp gỡ, bài thơ dài mới nhất tên là “Chuyện tôi về”, một loại bút ký thơ kể về thời gian “Ba mươi năm không phải chuyện / Một sớm một chiều/ Một ngày tù đã dài như thế kỷ / Ấy là tù giữa chợ...” Trong 30 năm đó, kể từ ngày có vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, và 17 năm sau đó nữa, chẳng có ai dám viết... Cũng trong dịp này, tôi được may mắn quen biết người bạn trẻ yêu nước, thường viết lách dưới bút hiệu Tiêu Dao Bảo Cự. Mến phục nhà trí thức đa tài đầy nhiệt huyết nầy, tôi đã chép tặng bài thơ Chuyện Di Tề với những câu như sau:
... Tôi là cây
gỗ
vuông
chành
chạnh
suốt đời
đã làm thất bại
mọi âm mưu
đẽo tròn
để muốn tùy tiện
lăn long lóc thế nào
thì long lóc
Chân
tính
đấy
hỡi Rìu, Bào
Phó-Mộc
Lần đó, chép xong mấy câu thơ, tôi đã chỉ tay vào trang giấy nói: “Anh thấy đó chữ Rìu, Bào và Phó-Mộc viết hoa. Anh biết tôi muốn ám chỉ ai rồi.” Anh bạn trẻ gật đầu tỏ vẻ lĩnh hội!
Chuyện này sau đó tôi quên tịt, nhưng hẳn là đã để lại trong tâm tư anh ta khá nhiều ấn tượng, bằng chứng là 17 năm sau, anh bạn trẻ (lúc này 60 tuổi, và tôi cũng đã 90!) lần mò từ Sài Gòn đến tận nhà thăm tôi! Mặc dù đang cảm nặng, tôi cũng thu gom được chút lực tàn để hầu chuyện cùng anh, ăn chung với anh một bữa cơm trưa thanh đạm gọi là đãi khách từ xa tới! Anh bạn trẻ nói chuyện thật vui, hỏi nhiều thứ tôi không còn nhớ nổi, nhất là những chuyện xảy ra trong chuyến xuyên Việt năm 1988! Nhưng những sự việc trước đó thì tôi nhớ như in, nhất là vào cái thời họ trù dập Nhân Văn Giai Phẩm. Anh bạn trẻ xin phép hút thuốc lá, tôi không cho; anh bảo cái gì anh cũng bỏ được, trừ cái tật nghiện thuốc lá! Hừm, có gì mà không bỏ được?! Cái gì có hại là phải bỏ! Nể mặt tôi nên anh giữ im lặng, nhưng tôi thấy rõ ánh bất bình trong mắt anh...
Anh bảo ra về sẽ viết một bài ký sự ghi lại buổi gặp gỡ đó, và anh đã giữ đúng lời hứa. Lớp trẻ ngày nay thật tài ba!
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, Công ty Vitek VTB đột nhiên ra đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu, trừ thuế còn 90, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu, phòng ốm đau lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy tập thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán!

                                                                                               HỮU LOAN


4 nhận xét:

  1. Tiếc thay cho một kiếp Người-Tài hoa,Đức độ,Thông thái-chỉ không gặp thời. Sao Ông cứ muốn mãi vuông vức vậy, sao không để Búa,Rìu đẽo cho tròn trịa để dễ lăn ?
    Trên mảnh đất chữ S này liệu có còn các khúc gỗ quý nhóm I hoặc vuông vức hoặc góc cạnh đang ẩn mình ? Để ta thấy nhan nhản các khúc gỗ tròn trịa, nhẵn bóng được dùng làm cột nhà, cột đình,chùa. Chỉ tiếc rằng đám gỗ tròn trịa này toàn nhóm 6,nhóm 7 nên các công trình hay bị sụp mái. Cứ vài năm lại thấy có một số lượng cột không nhỏ bị mối mọt,mục rỗng...Người ta lại tìm mấy khúc gỗ mềm và dùng Búa,Rìu đẽo cho tròn để thay thế.(QH)

    Trả lờiXóa
  2. MÀU TÍM HOA SIM

    Nàng có ba người anh
    Đi bộ đội
    Những em nàng còn chưa biết nói
    Khi tóc nàng xanh xanh.

    Tôi là người chiến binh
    Xa gia đình
    Yêu nàng như tình yêu em gái
    Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
    Tôi mặc đồ quân nhân
    Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
    Nàng cười xinh xinh
    Bên anh chồng độc đáo.
    Tôi ở đơn vị về
    Cưới nhau xong là đi!

    Từ chiến khu xa
    Nhớ về ái ngại
    Lấy chồng đời chiến chinh
    Mấy người đi trở lại
    Lỡ khi mình không về
    Thì thương người vợ chờ
    Bé bỏng chiều quê ...

    Nhưng không chết người trai khói lửa
    Mà chết người gái nhỏ hậu phương
    Tôi về không gặp nàng
    Má tôi ngồi bên mộ con
    Đầy bóng tối
    Chiếc bình hoa ngày cưới
    Thành bình hương
    Tàn lạnh vây quanh ...

    Tóc nàng xanh xanh
    Ngắn chưa đầy búi
    Em ơi!
    Giây phút cuối
    Không được nghe nhau nói
    Không được trông thấy nhau một lần.

    Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
    áo nàng màu tím hoa sim
    Ngày xưa một mình
    đèn khuya
    bóng nhỏ
    Nàng vá cho chồng tấm áo
    ngày xưa...


    Một chiều rừng mưa
    Ba người anh
    Trên chiến trường Đông Bắc,
    Biết tin em gái mất
    Trước tin em lấy chồng.

    Gió sớm thu về
    Rờn rợn nước sông
    Đứa em nhỏ lớn lên
    Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
    Khi gió thu về
    Cỏ vàng chân mộ chí.

    Chiều hành quân
    Qua những đồi sim ..
    Những đồi hoa sim ...,
    Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
    Màu tím hoa sim
    Tím cả chiều hoang biền biệt
    Nhìn áo rách vai
    Tôi hát trong màu hoa.
    Áo tôi sứt chỉ đường tà,
    Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu

    Bài thơ Màu Tím Hoa Sim, viết để khóc người vợ đầu tiên của ông là Lê Ðỗ Thị Ninh, được nhà thơ Nguyễn Bính công khai cho đăng trên Trăm Hoa ở Hà Nội năm 1956, sau nhiều năm được truyền miệng. Bài thơ này được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc (lPT)

    Trả lờiXóa
  3. Nặc danh12:04 1/4/13

    Bài thơ hay quá, thật tự nhiên và thật truyền cảm. Em đọc nhiều lần rồi mà giờ đọc lại vẫn thấy lạnh sống lưng. Với những người yêu thơ Hữu Loan không chết, ông còn sống mãi. Trông ông chẳng khác gì một ông tiên ở trên đời.

    Trả lờiXóa
  4. Nặc danh22:01 1/4/13

    Đã có một thời, tôi và bạn bè, đứa nào cũng thẫn thờ trong “Màu tím hoa sim”. Chúng tôi đọc thơ và hình dung về “nàng” với hình ảnh “Tóc nàng xanh xanh/Ngắn chưa đầy búi … Nàng cười xinh xinh/Bên anh chồng độc đáo”. Chắc là nàng trẻ trung lắm, xinh xắn lắm, đáng yêu lắm!
    Đã có những chiều thu, đọc mãi “Màu tím hoa sim”, tôi thấy lòng mình thổn thức, khi hình dung cảnh người chồng về tới nhà, thấy mẹ ngồi bên mộ vợ, và “Chiếc bình hoa ngày cưới/Thành bình hương/ Tàn lạnh vây quanh”. Rồi con tim tôi chợt nhói đau cùng thi sĩ, khi tưởng tượng ra cảnh “Gió sớm thu về/Rờn rợn nước sông/Đứa em nhỏ lớn lên/Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị/Khi gió thu về/Cỏ vàng chân mộ chí” ...
    Và cũng đã có một thời, tôi thấy trái tim mình quặn thắt mỗi khi mở trang thơ “Màu tím hoa sim”. Trước mắt tôi là cảnh đoàn binh hành quân trong chiều hoang vắng, qua những đồi sim dằng dặc thê lương. Những đồi sim đầy gió lang thang, thê thiết như nỗi buồn đau của người trai thương về vợ trẻ ... Không mang nỗi buồn đau ấy, sao gọi là người?
    Vậy mà, đã có một thời, ngay cả nỗi buồn đau rất con người ấy, cũng bị cấm đoán và rắp tâm bóp chết. Tôi cũng từng nghe nói đến một Hữu Loan hậu “Màu tím hoa sim”. Nhưng để tường tận, thì mãi đến hôm nay, sau khi đọc bài anh NCT sưu tầm đưa lên blog, tôi mới hiểu.
    Giờ thì tôi đã biết, vì tình yêu, yêu người và yêu thơ, một thi sĩ đã khổ đau đến nhường ấy. Và tôi cũng đã hiểu, để bảo vệ tình yêu, thi sĩ ấy có thể kiên định đến nhường kia ... Tôi muốn đọc lên những lời thơ của tôi, của một người mới chập chững làm thơ, thay cho một nén hương tưởng nhớ tác giả “Màu tím hoa sim”:

    Hữu Loan ơi!
    Một nén hương thơm tưởng nhớ người,
    Một đời oan khổ, lệ không rơi.
    Hoa sim tím mãi lòng nhân thế!
    Dưới suối gặp nàng, anh có nguôi?
    (N22)

    Trả lờiXóa

Bạn có thể nhận xét không cần là thành viên, và nên góp ý lành mạnh, trung thực. Chọn nhập vai trong danh sách phía dưới khung nhận xét.