26 tháng 4, 2013

Sự thay đổi chế độ ở Ba Lan diễn ra như thế nào?

Giới thiệu: Trong bài cách mạng Nhung (Sec) có câu: 10 năm Ba Lan, 10 tuần Đức, 10 ngày Tiệp... Như thế đủ thấy cách mạng ở Ba Lan gian khổ và phức tạp thế nào. Bài này giới thiệu sự thay đổi chế độ ở Ba Lan, không êm và "nhung" như ở Sec, có nhiều khúc phức tạp. Bài của tác giả Lý Thái Hùng tổng hợp, khai thác trên mạng.


I- Sơ lược Bối cảnh lịch sử Ba Lan:
Nằm giữa hai siêu cường Nga và Đức, Ba Lan luôn luôn hứng chịu những bất hạnh nghiệt ngã do các thế lực chính trị của hai quốc gia này chèn ép. Cách đây hơn 200 năm, Ba Lan đã bị đế quốc Nga xâm lăng rồi bị xóa tên trên bản đồ thế giới vào năm 1795. Phải hơn một thế kỷ sau, Ba Lan được tái sinh, vừa nhờ công lao của vị anh hùng dân tộc lúc đó là tướng Josef Pilsudski khởi binh chống lại chế độ Nga Hoàng dưới triều đại vua Nicolas II, vừa nhờ những áp lực của Đức ở biên giới, khiến cho chính quyền non trẻ của đảng cộng sản Nga phải ký hòa ước Brest Litovsk với Đức, trả lại độc lập cho Ba Lan, sau Đệ Nhất Thế Chiến. Mặc dù biên giới Ba Lan được phân chia trở lại theo hòa ước Versailles, nhưng đến năm 1921, chính quyền Cộng sản Nga mới chính thức công nhận biên giới hiện giờ của Ba Lan.

Sau thời gian độc lập ngắn ngủi, ngày 1 tháng 9 năm 1939, Hitler đã xua quân tiến chiếm Ba Lan từ hướng Tây, trong khi đó, Stalin cũng đã đưa Hồng Quân tiến vào Ba Lan từ hướng Đông, nhưng sau đó Nga rút quân, Phát xít Đức chiếm đóng cho đến năm 1945. Thực ra, trước khi đưa quân tiến chiếm Ba Lan, Ngoại trưởng hai nước Nga và Đức Quốc Xã đã ký kết một văn kiện bí mật, gọi là văn kiện "Hiệp Nghị Đồng Xâm Lược Ba Lan" vào ngày 23 tháng 8 năm 1939. Suốt trong thời gian Đệ Nhị Thế Chiến, nhân tài của Ba Lan đã bị Đức Quốc Xã và Cộng sản Nga tàn sát gần hết.
Ngày 21 tháng 4 năm 1945, một nhóm cộng sản Ba Lan do đảng Cộng sản Nga huấn luyện và đỡ đầu từ thập niên 30 đã họp ở thành phố Chelm, thành lập chính phủ kháng chiến, bất chấp chính phủ lưu vong Ba Lan lúc đó đang tỵ nạn Đức Quốc Xã tại Anh. … Năm 1946, Cộng sản Ba Lan đã dàn dựng ra cuộc trưng cầu dân ý, để vừa chính thức hóa vai trò lãnh đạo của mình, vừa quốc hữu hóa các xí nghiệp kỹ nghệ và các cơ quan truyền thông. Trong hai năm 1947 và 1948, chính quyền cộng sản đã đưa ra một số Pháp lệnh để giải tán các đảng phái khác và ép các nhân vật trong đảng Xã Hội Ba Lan gia nhập đảng Cộng sản, lúc đó đã đổi tên thành đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (Polish United Worker’s Party = PUWP).
Để xoa dịu sự bất mãn này, đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan đã đưa Vladyslaw Gomulka lên nắm quyền vì Gomulka đã từng tham gia lực lượng du kích chống Đức Quốc Xã trong Đệ Nhị Thế Chiến, từng bị khai trừ khỏi đảng Cộng sản Ban Lan và bị bắt giam theo lệnh của Stalin do khuynh hướng dân tộc của ông. Sau khi lên nắm quyền, Gomulka có thực hiện một số cải cách, đứng ra nhận những sai lầm của đảng và hứa sẽ sửa sai. Đến năm 1968, Gomulka bị thành phần bảo thủ trong đảng khuynh loát, bắt đầu xiết trở lại và đã thẳng tay đàn áp phong trào sinh viên đòi dân chủ vào lúc đó, cũng như trù dập người Do Thái, khiến cho nhiều gia đình Do Thái ở Ba Lan phải tìm cách trốn ra khỏi xứ.
Từ năm 1970, do những thất bại trong chính sách công nghiệp hóa, tình hình kinh tế của Ba Lan liên tục bị khủng hoảng, ngân sách thâm thủng trầm trọng. …Những cuộc đình công đã nhanh chóng lan rộng trên toàn quốc, tạo áp lực mạnh lên đảng Công Nhân Thống Nhất, khiến cho chính quyền Gomulka sụp đổ, thay thế bởi chính quyền Edward Gierek.
Được sự cho phép của Liên Xô, chính quyền Edward Gierek trở lại chính sách mở cửa, vay tiền các nước Tây phương để gia tăng khả năng sản xuất và tiêu thụ của dân chúng. Nhưng chính sách cải tổ của Gierek cũng dẫn đến thất bại. …Đến ngày 1 tháng 7 năm 1980 lại tiếp tục tăng giá thịt và những sản phẩm chế bằng thịt đã làm cho công nhân và dân chúng không còn chịu đựng được nữa. Cuộc đình công phản đối của công nhân tại thành phố Chelm vào ngày 2 tháng 7 năm 1980 đã mở đầu cho một loạt những biến cố đưa đến sự tan rã chế độ cộng sản Ba Lan vào một thập niên sau đó.

II- Những Diễn Biến Chính Trị.
Công Đoàn Đoàn Kết Ra Đời.
Cuộc đình công chống tăng giá thịt của công nhân tại thành phố Chelm đã tác động mạnh mẽ lên các công nhân ở thành phố Gdansk, nằm ở ven biển Baltic. Ngày 14 / 8 / 1980, lấy lý do chống đối việc ban quản trị đã đuổi việc một nữ công nhân phụ trách điều khiển giàn cần trục tự động, công nhân xưởng đóng tàu Lênin tại Gdansk chiếm công trường, tổ chức đình công. Đến ngày 16/8, công nhân đã tự động thành lập Ủy ban đình công (MKS), nhằm bảo vệ quyền lợi công nhân. Ngày 18, Ủy ban đình công (MKS) đã đưa ra 21 yêu sách đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản Ba Lan phải đáp ứng như công nhận quyền đình công, thừa nhận quyền lập nghiệp đoàn, quyền tự do hội họp... Ngày 22 /8, chính quyền Gierek phải cử một số cán bộ đến thảo luận về những yêu sách của Ủy ban đình công ở Gdansk. Ngày 24/8, nhằm vận động giới trí thức hậu thuẫn cuộc đấu tranh của công nhân, Ủy ban đình công (MKS) đã thành lập Tiểu ban chuyên môn, mời những người trí thức tham gia với tư cách cố vấn. Ngày 29/8, công nhân ở hai thành phố Poznan và Shilonsk đình công để ủng hộ cuộc đấu tranh của Ủy ban đình công tại Gdansk. Sau mấy ngày thảo luận và tranh cải về nhiều vấn đề, cuối cùng, đại diện chính quyền Gierek đã ký một thỏa ước với Lech Walesa, đại diện Ủy ban vào ngày 1/9/1980, đồng ý thực thi 21 yêu sách của Ủy ban như chấp nhận quyền tự do lập nghiệp đoàn, tự do nhóm họp và tự do đình công... Đây là thắng lợi đầu tiên của công nhân Ba Lan, và cũng là một sự kiện hy hữu, vì Ba Lan là quốc gia đầu tiên công nhận sự hoạt động độc lập của một Công đoàn trong các nước Cộng sản vào thời đó. Sự kiện này đã tạo một hình thái đấu tranh mới cho hàng ngũ thanh niên sinh viên Ba Lan, nên ngày 2/9, Liên Minh Thanh Niên Độc Lập đã được thành lập tại thủ đô Warsaw. Ngày 4/9, Ủy ban đình công (MKS) đã cải tên thành Công Đoàn Đoàn Kết, bầu Lech Walesa làm Chủ tịch, văn phòng đặt trong xưởng đóng tàu Lênin ở thành phố Gdansk.
(…) Khi Đức Hồng Y gốc Ba Lan trở thành Đức Giáo Hoàng John Paul II (1978), vị chủ chăn của Giáo Hội Công Giáo La Mã đã ủng hộ Công Đoàn Liên Đới một cách công khai, khiến cho giới công nhân, quần chúng nhiệt liệt tin tưởng vào thế đấu tranh chính nghĩa của Công Đoàn Đoàn Kết. Nhờ vậy mà trong giai đoạn đầu của thập niên 80, số thành viên tham gia Công Đoàn lên đến gần 1/3 dân số, trở thành một lực lượng chính trị đáng kể.
Sự kiện nhà cầm quyền Cộng sản Ba Lan công nhận tính hợp pháp của Công Đoàn Đoàn Kết đã là biến cố lớn, tạo sự quan tâm cho Hoa Kỳ và các nước Tây phương. Nhưng vì lo ngại phản ứng đàn áp của Liên Xô, nên các nước Tây phương, đặc biệt Tổng Thống Jimmy Carter (1976-1980) của Hoa Kỳ giữ thái độ im lặng, coi đây là vấn đề nội bộ của Ba Lan. Nhưng Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Hoa Kỳ vào thời đó là ông Kerlend, chủ trương Hoa Kỳ phải lên tiếng ủng hộ để ngăn ngừa sự đàn áp của Liên Xô và thành lập một quỹ trị giá 250 ngàn Mỹ kim để hỗ trợ các hoạt động của Công Đoàn. Lúc đầu, chính quyền Hoa Kỳ sợ Liên Xô khó chịu nên tìm mọi cách ngăn cản nỗ lực này của ông Kerlend. Nhưng Kerlend cương quyết tiến hành, và tuyên bố không đồng ý quan điểm của Tổng thống Carter về vấn đề Ba Lan. Lúc đó, Tổng thống Carter đang ở trong cuộc chạy đua ghế Tổng Thống nhiệm kỳ thứ 2 với đại diện của đảng Cộng Hòa là ứng cử viên Reagan nên không muốn làm phật lòng Tổng Liên Đoàn Lao Động Hoa Kỳ, nên phải chỉ thị cho Bộ ngoại giao ngầm hỗ trợ Chủ tịch Kerlend giúp đỡ tài chánh cho Công Đoàn qua ngả sứ quán Hoa Kỳ tại thủ đô Warsaw. Bộ Trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã gặp đại sứ Liên Xô tại Hoa Thịnh Đốn, thông báo về việc thành lập quỹ giúp cho Công Đoàn, nhưng cho biết là chính phủ Hoa Kỳ không liên hệ với Tổng Liên Đoàn Lao Động.
Ngày 26/9/1980, trong buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, chính quyền Carter đã thảo luận về vấn đề Tổng Liên Đoàn Lao Động Hoa Kỳ giúp Công Đoàn Đoàn Kết, và đề cập đến việc yêu cầu các Nghiệp đoàn của Tổng Liên Đoàn không nên tổ chức rầm rộ vấn đề này, vì sợ ảnh hưởng vào nguyên tắc ngoại giao là can thiệp nội bộ chính quyền khác. Song song, Tổng thống Carter cho lệnh theo dõi phản ứng của Liên Xô đối với sự ra đời của Công Đoàn Đoàn Kết. Theo báo cáo của Cơ Quan Tình Báo CIA gửi cho Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ vào thời đó, thì từ đầu mùa thu năm 1980, Hồng Quân Liên Xô đã được lệnh di chuyển về phía biên giới Ba Lan, trong tư thế sẵn sàng ứng chiến. Để ngăn cản cuộc tiến quân của Liên Xô vào Ba Lan, Tổng Thống Carter và Hội Đồng An Ninh Quốc Gia chọn giải pháp tăng cường việc yểm trợ quân sự cho Trung Cộng, để đánh lạc hướng Liên Xô. Nhưng chỉ thị chưa thi hành thì Tổng thống Carter thất cử. Sau khi Tổng thống Reagan lên cầm quyền, cơ quan CIA đã báo cáo rằng, có thể Liên Xô sẽ hỗ trợ cho đảng Cộng sản Ba Lan áp dụng biện pháp mạnh để đàn áp Công Đoàn Đoàn Kết.

Công Đoàn Đoàn Kết bị đàn áp.
Ngày 14/9/1980, Trung ương đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (PUWP) đã buộc Edward Gierek từ chức Thủ tướng, đề cử Kania lên thay thế. Nhưng Thủ tướng Kania không ổn định được tình hình, nên đến tháng 2/1981, Trung ương đảng đề cử Wojciech Jaruzelski, thuộc phe giáo điều lên làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng. Jaruzelski đã lập ra Hội đồng Quân sự Cứu quốc gồm 20 tướng lãnh (cơ chế này không quy định trong hiến pháp) do mình làm chủ tịch, với mục đích ngăn ngừa đảo chánh và ổn định tình hình. Ngày 13/12/1981, Jaruzelski đã ban hành lệnh "thiết quân luật" trên toàn quốc. Theo lệnh này, Jaruzelski cho đóng cửa biên giới, cấm phát hành sách báo, cấm mọi cuộc đình công, biểu tình và cấm dân chúng rời nhà ban đêm.
Thủ tướng Wojciech Jaruzelski không những ra lệnh đóng cửa các trụ sở của Công Đoàn; bắt giam Lech Walesa cùng bộ tham mưu của ông lúc đó là những nhân vật tên tuổi như Adam Michnik, Luật sư Tadeusz Mazowieckj, Sử gia Bronislaw Geremek mà còn quản thúc cựu Thủ tướng Edward Girerek và những cán bộ đảng viên có liên hệ đến việc chấp nhận 21 yêu sách của Công Đoàn Đoàn Kết vào năm 1980. Mặc dù Lech Walesa bị bắt và các cơ sở bị trù dập, nhưng nhờ sự hỗ trợ của Giáo Hội Công Giáo nên Công Đoàn vẫn tiếp tục hoạt động, đặc biệt là công nhân xưởng đóng tàu ở Gdansk và công nhân hầm mỏ ở thành phố Shilonsk đã vũ trang chống lại lực lượng cảnh sát và quân đội khiến cho 9 người bị thiệt mạng vào thời gian đó. Đến ngày 9/10/1982, chính quyền Jaruzelski đã đặt Công Đoàn Đoàn Kết ra ngoài vòng pháp luật. Trong khi đó, để chống lại lệnh thiết quân lực và sự đàn áp Công Đoàn Đoàn Kết của chính quyền Jaruzelski, Tổng thống Reagan đã cho triệu hồi đại sứ Hoa Kỳ tại Ba Lan về nước, và công bố cấm vận kinh tế Ba Lan vào ngày 24/12/1981. Sau đó, Hoa Kỳ đã kêu gọi Nhật Bản và các nước Tây phương quyết định tương tự như Hoa Kỳ để bảo vệ Công Đoàn Đoàn Kết. Ngày 2 tháng 9 năm 1982, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ đã đưa ra chính sách mới về Đông Âu, với mục tiêu giúp cho các nước này tiếp cận với Tây Âu để tách khỏi sự chi phối của Liên Xô. Chính sách này có những điểm chính như: 1) Đặt khoảng cách ngoại giao đối với Liên Xô, giúp đỡ ngoại giao cho những nước có ý hướng muốn độc lập khỏi Liên Xô; 2) Giúp đỡ đặc biệt cho những chính phủ nào có chính sách tôn trọng nhân quyền, chấp nhận đa nguyên, tự do kinh tế bằng cách giúp gia nhập IMF, hưởng quy chế tối huệ quốc, vay mượn tiền từ các định chế tài chánh Quốc tế dễ dàng.
Theo tài liệu phân tích của Không Lực Hoa Kỳ ngày 25/1/1982, dưới tên: Sự Tin Tưởng Của Cơ Cấu Warsaw nhìn từ Liên Xô, đã viết rằng: "đối với Liên Xô, nguy cơ Ba Lan là một thách đố về sức mạnh quân sự của khối Warsaw". Lúc đó, Hoa Kỳ nghĩ rằng Liên Xô sẽ đem quân vào Ba Lan, nhưng 2 tháng sau, ngày 25/3/1982, cơ quan CIA đã đưa ra bản phân tích có nội dung khác với tài liệu phân tích của Không Lực Hoa Kỳ. Bản phân tích của CIA cho rằng Liên Xô hài lòng về lệnh thiết quân lực và kế hoạch đưa Công Đoàn Đoàn Kết ra khỏi vòng pháp luật của chính quyền Jaruzelski, nên Liên Xô sẽ không đem quân vào Ba Lan. Với sự phân tích của cơ quan CIA, Tổng thống Reagan bớt lo sợ Liên Xô đưa quân vào Ba Lan nên đã tăng cường các áp lực cho đến khi chính quyền Jaruzelski rút lại lệnh thiết quân luật. Nhờ những áp lực của các quốc gia Tây Phương và của tòa thánh Vatican, Thủ tướng Wojciech Jaruzelski đã phải chấm dứt lệnh "thiết quân luật" vào tháng 12 năm 1982 và ra lệnh phóng thích Walesa cùng các thành phần lãnh đạo Công Đoàn. Tuy nhiên, vì hạ tầng cơ sở bị tê liệt do sự khủng bố của cơ quan mật vụ, hoạt động của Công Đoàn Đoàn Kết từ đó trở nên suy yếu. Mặc dù uy tín cá nhân của Walesa tăng lên và được Hàn Lâm Viện Thụy Điển trao Giải Nobel Hòa Bình năm 1983, nhưng ông đã không lấy lại được khí thế của Công Đoàn, khiến cho hơn một nửa thành viên ngưng hoạt động hoặc xa lánh Công Đoàn vào những năm kế tiếp. Nhất là vào năm 1987, khi đảng Cộng sản Ba Lan tung ra chính sách mua chuộc, dụ dỗ và trả tự do cho những người bị chế độ bỏ tù vì có liên quan đến Công Đoàn Đoàn Kết trước đó, tiềm lực của Cộng Đoàn suy giảm.
Nhưng Lech Walesa và bộ tham mưu của Công Đoàn Đoàn Kết đã không bỏ cuộc. Tháng 5/1987, Công Đoàn lại tổ chức cuộc đình công đòi chính quyền Jaruzelski tái công nhận các quyền tự do mà chính quyền Gierek trước đây chấp thuận, nhưng đã bị đàn áp một cách dã man hơn các lần trước, khiến Lech Walesa phải tuyên bố ngưng cuộc đình công. Hành động này của Walesa đã tạo ra sự bất mãn của một số nhân vật lãnh đạo Công Đoàn ở các địa phương. Họ cho rằng Walesa quá sợ Cộng sản và đòi truất phế ông ta. Đây là giai đoạn bi đát nhất của Lech Walesa vì nội bộ Công Đoàn Đoàn Kết bị phân rã cùng với chính sách mua chuộc của đảng Cộng sản, khiến cho Walesa không còn khả năng kiểm soát và điều động Công Đoàn một cách nhất thống như trước.

Đình Công Đưa Đến Sự Sụp Đổ Nội Các Mesnel.
Trong khi Công Đoàn Đoàn Kết bị tê liệt, nội tình của đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (PUWP) cũng rối rắm vì sự xung đột của 2 phe giáo điều và cải cách trong đảng. Phe cải cách thắng thế và ép buộc Jaruzelski từ chức Thủ tướng, Trung Ương Đảng Công Nhân Thống Nhất đề cử Mesnel lên thay thế. Nội các Mesnel đưa ra một số chương trình cải cách, nhưng lại dùng thủ đoạn bắt Quốc hội Ba Lan thông qua đạo luật "Quyền Tối Khẩn" cho nội các, vào ngày 11/5/1988. Mục tiêu là để giúp cho Mesnel có thể đưa ra những Pháp lệnh phù hợp trong khuôn khổ cải cách có lợi cho đảng cầm quyền. (…) Lech Walesa đã kêu gọi Công Đoàn Đoàn Kết thực hiện cuộc đình công quy mô trên toàn quốc kéo dài từ tháng 4 qua đến tháng 8 năm 1988. Nội các Mesnel đã dùng "Quyền Tối Khẩn" để ngăn chận cuộc đình công, nhưng thất bại. Trước tình trạng sinh hoạt xã hội bị tê liệt do cuộc đình công của Công Đoàn gây ra, phe cải cách một lần nữa áp lực Trung ương đảng phải trực tiếp đối thoại với Công Đoàn để ngưng cuộc đình công. Do đó, trong Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung Ương đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan nhóm họp vào ngày 13/6/1988, Tổng bí thư Đảng Wojciech Jaruzelski, tuy không công nhận Công Đoàn Đoàn Kết là một tổ chức hợp pháp, nhưng tuyên bố chấp nhận tham dự Hội Nghị Bàn Tròn với đại diện Công Đoàn, để giải quyết các yêu sách.
Ngày 26/8/1988, Bộ trưởng Nội vụ Czeslaw Kiszczak đã tuyên bố là nếu Công Đoàn chấp hành luật pháp và hiến pháp của Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan, chính quyền sẵn sàng thoả mãn các yêu sách của Công Đoàn mà không cần một điều kiện nào. Ngày hôm sau, Walesa đã tuyên cáo đồng ý những đề nghị bên phía chính quyền. Ngày 31/8, Walesa đã gặp gỡ Bộ trưởng Nội vụ Czeslaw Kiszczak, sau đó kêu gọi công nhân toàn quốc ngưng cuộc đình công. Trong khi đó, đảng Công Nhân Thống Nhất (PUWP) đã cấp tốc tổ chức Hội nghị Trung Ương đảng kỳ 8 sớm hơn từ ngày 27 đến 28/8, để đối phó tình hình. Trong Hội nghị này, Trung Ương đảng chính thức quyết định tiến hành cải cách kinh tế và chính trị, đồng thời biểu quyết chấp thuận việc tiến hành đối thoại với Công Đoàn Đoàn Kết. Như vậy, mặc dù buộc Quốc hội thông qua để có đạo luật "Quyền Tối Khẩn", nội các Mesnel đã không chận đứng được các cuộc đình công của Công Đoàn và cũng không thực hiện được cuộc cải cách theo ý của đảng cầm quyền nên cuối cùng Quốc Hội đã biểu quyết bất tín nhiệm nội các, Mesnel đã phải từ chức. Đây là sự kiện hy hữu trong lịch sử đảng Cộng sản Ba Lan, nội các của đảng cầm quyền phải từ chức qua khuyến cáo của Quốc hội.
Trước khi Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan nhóm họp từ ngày 23/8/1988, Bộ chính trị của đảng này đã họp trước nhằm tìm người khác thay thế Mesnel. Trong thời gian đó, Hội đồng cán bộ của đảng Nông Dân Thống Nhất (United Peasant Party) và Đảng Dân Chủ (Democratic Party) cũng đã nhóm họp riêng để chuẩn bị kế hoạch đối phó, khi Hội Nghị Bàn Tròn triệu tập. Đảng Nông Dân Thống Nhất và đảng Dân Chủ là hai tổ chức ngoại vi của đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan, nhưng từ khi đảng này chấp nhận đối thoại với Công Đoàn Đoàn Kết, họ không còn phục tùng sự lãnh đạo và nhất là bất mãn về việc chấp nhận đối thoại với Công Đoàn. Hội nghị lần thức 8 của Trung ương đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan quyết định đề cử Rakowski làm Thủ Tướng và "thông qua" đề cương cải cách kinh tế và chính trị của Bộ chính trị.
Rakowski là lá bài cuối cùng của đảng Công Nhân Thống Nhất. Ông là người thuộc nhóm cải cách và là Phó Thủ tướng thời Jaruzelski làm Thủ tướng (1981), từng tham dự các cuộc đàm phán trước đây với Công Đoàn Đoàn Kết. Sau khi được Quốc hội chỉ định làm Thủ tướng vào ngày 27 tháng 9, Rakowski đã thực hiện các cuộc thảo luận với nhiều giới tôn giáo, văn hóa và cả một số nhân vật "ôn hòa" trong Công Đoàn Đoàn Kết để thành lập nội các liên hiệp, nhưng Công Đoàn không chịu tham gia. Ngày 13/10, Rakowski ra Quốc hội trình bày một số dự định trong việc cải cách chính trị lẫn kinh tế và để tạo sự chú ý của dư luận vào chương trình cải cách của mình, Rakowski đã phê bình gay gắt kế hoạch cải cách kinh tế của nội các Mesnel. Đòn tâm lý này đã khiến đông đảo quần chúng "ngưng chiến" với chính quyền, chờ đợi khả năng cải thiện tình hình của nội các mới. Đây là kỹ thuật xoa dịu tình hình để mong vô hiệu hóa sức mạnh đấu tranh của Công Đoàn và quần chúng. Kỹ thuật này đã từng được một số đảng Cộng sản ở Hung Gia Lợi, Bảo Gia Lợi áp dụng để mua thời gian suy tính một kế sách khác.
Vấn đề cốt lõi mà nội các Rakowski phải giải quyết gồm có 2 điểm: Thứ nhất là thực hiện cải cách kinh tế để cứu vãn tình trạng nợ ngoại quốc lên đến 30 tỷ Mỹ kim, trong đó khoản tiền lời chiếm mất 90% số ngoại tệ Ba Lan kiếm được hàng năm. Thứ hai là thực hiện Hội Nghị Bàn Tròn với Công Đoàn Đoàn Kết.
Ngày 23/9, Mieczylaw Rakowski công bố chi tiết chính sách cải cách kinh tế bao gồm một số điểm rút ra từ bản kế hoạch của đảng, do Ủy ban Cải cách Kinh tế và Lao động Tự trị, thành lập trong kỳ họp lần thứ 8 của Trung Ương Đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan, soạn thảo. Chính sách này gọi là "Kế Hoạch Tăng Cường Sinh Hoạt Kinh Tế Toàn Dân" bao gồm 4 chương trình cải tổ: 1) Cải thiện điều kiện sinh hoạt; 2) Đẩy lùi lạm phát và ổn định tiền tệ; 3) Bảo vệ môi sinh; 4) Tăng thêm nhà ở cho người dân. Sau này, chính quyền Rakowski đề nghị thêm một chính sách nữa là chú trọng cải tiến nông nghiệp để giải quyết vấn đề lương thực. Trong phiên họp nội các vào ngày 18 tháng 10, Rakowski chỉ thị thành lập Hội Nghị Kinh Tế Cấp Bộ, để tiến hành việc thực hiện các kế hoạch chi tiết dựa theo các chương trình cải cách của đảng đưa ra như trên. (…) Nhưng người trách nhiệm các chương trình nói trên lại là Phó Thủ tướng Sekwar. Ông này, trong bài diễn văn đọc trước Quốc hội đã không thuyết phục được các dân biểu vì những mâu thuẫn trong cách thi hành, nên đã không được Quốc hội thông qua.

Hội nghị Bàn tròn.
Mặc dù đã đồng ý chấp nhận Hội Nghị Bàn Tròn với Công Đoàn, chính quyền Cộng sản Ba Lan đã tìm cách cù cưa, đưa ra một số điều kiện để làm giới hạn mục tiêu của hội nghị. Đầu tiên, phía chính quyền đặt điều kiện là Công Đoàn phải tôn trọng hiến pháp, luật pháp hiện hành, và chỉ bàn về sự hợp pháp của Công Đoàn mà thôi. Phía Công Đoàn Đoàn Kết thì dựa vào điều tuyên bố của chính quyền trước đó, rằng Hội Nghị không có điều kiện nào ràng buộc về chủ đề họp cũng như người tham gia, nên không cho tham gia cuộc họp. Ngày 15 và 16/9, Bộ trưởng Nội vụ Czeslaw Kiszczak và Lech Walesa đã họp riêng nhưng không giải quyết được vấn đề. Kế đến, chính quyền Cộng sản Ba Lan lúc đầu hứa là những người tham gia cuộc đình công vào tháng 8 năm 1988 sẽ không bị đàn áp về chính trị, thế nhưng Bộ Nội vụ đã điều tra và đuổi việc những người tham dự. Ngoài ra, ngày 28/8, chính quyền đã tuyên bố giải tán xưởng đóng tàu Lenin khiến cho cục diện trở nên khẩn trương. Chính quyền Rakowski lấy lý do kinh tế, áp dụng đạo luật "Quyền Tối Khẩn" được Quốc hội thông qua dưới thời nội các Mesnel có hiệu lực đến cuối năm 1988, để giải tán những xí nghiệp mà phía Công Đoàn Đoàn Kết có ảnh hưởng mạnh, làm cứ điểm thực hiện các cuộc đình công tạo áp lực. Sự kiện này đã đặt Công Đoàn Đoàn Kết vào thế phải đấu tranh, và cho đây là hành động đàn áp chính trị của đảng cầm quyền nên cương quyết không dự Hội Nghị.
Ngày 3/11, Bộ trưởng Nội vụ Kiszczak xin hội đàm với Walesa để khai thông vấn đề. Phía Công Đoàn Đoàn Kết đã đưa ra một số điều kiện: 1) Thừa nhận sự hợp pháp của Công Đoàn; 2) Phục hồi chức vụ và công việc của những người đã tham gia đình công; 3) Cho những người đã liên hệ trong hai cuộc đấu tranh năm 1968 và 1970 tham dự hội nghị; 4) Thu hồi lệnh giải tán xuởng đóng tàu Lênin, thì Công Đoàn Đoàn Kết mới tham gia Hội nghị. Những đòi hỏi của Công Đoàn Đoàn Kết đã khiến cho đảng cầm quyền lúng túng. Mãi cho đến ngày 18/1/1989, Đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan mới triệu tập Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương đảng để thảo luận về các đề nghị của Công Đoàn. Cuối cùng, Hội Nghị đã phải nhượng bộ, đồng ý bốn yêu sách của Công Đoàn và đưa ra hai quyết định quan trọng: Thứ nhất là chấp nhận sinh hoạt chính trị đa thành phần (chưa công nhận đa đảng); Thứ hai là chấp nhận nghiệp đoàn đa thành phần. Ngoài ra, Trung ương đảng còn hứa là sẽ tu chính bộ luật nghiệp đoàn (Luật này do chính quyền Jaruzelski đưa ra vào tháng 10 năm 1982 để cấm sự hoạt động của Công Đoàn Đoàn Kết). Quyết định này đã làm cho phe giáo điều cực lực chống đối, chủ trương không công nhận sự hợp pháp của Công Đoàn. Tổng bí thư Jaruzelski, Thủ tướng Rakowski và Bộ Trưởng Nội vụ Kiszczak dọa là nếu toàn bộ Trung ương đảng không đồng ý các nội dung trên, họ sẽ từ chức.
Ngày 22/1, Công Đoàn Đoàn Kết đưa ra lời tuyên bố biểu lộ sự quan tâm về quyết định của đảng cầm quyền và chấp nhận tham gia Hội Nghị Bàn Tròn. Hội Nghị Bàn Tròn bắt đầu từ ngày 6/2 kéo dài đến ngày 5/4/1989. Ngày đầu và ngày cuối có diễn văn khai mạc và bế mạc của hai phía. Hội Nghị chia làm ba tiểu ban gồm: Tiểu Ban I, thảo luận về các chương trình cải cách kinh tế và những chính sách xã hội; Tiểu Ban II, thảo luận về chính sách nghiệp đoàn, lao động; Tiểu Ban III, thảo luận về cải cách chính trị. Để thảo luận vấn đề một cách rốt ráo, Hội nghị đã chia các tiểu ban thành từng nhóm chuyên đề. Mỗi nhóm chuyên đề phải có nhiệm vụ đưa ra đối sách cho từng lãnh vực, sau đó đúc kết thành văn bản chung theo từng tiểu ban, có chữ ký đồng ý của hai phía. Hội nghị không chỉ thảo luận để đả thông ý kiến giữa hai bên về một số vấn đề mà còn đào sâu vào những phương thức giải quyết, thành hình những dự thảo Pháp Lệnh trình cho Quốc hội biểu quyết. Hội Nghị Bàn Tròn đã thảo luận một số nội dung cơ bản như:
Tiểu Ban Cải Cách Kinh Tế - Xã Hội:
Tiểu ban này họp từ ngày 8 tháng 2 đến 4 tháng 4, tất cả 13 lần, nhằm giải quyết các vần đề: 1) Gia tăng sản xuất; 2) Chế ngự lạm phát; 3) Cải cách tiền lương; 4) Bảo hiểm xã hội; 5) Áp dụng nguyên lý thị trường; 6) Chính sách lao động tự quản; 7) Giải quyết nợ ngoại trái. Những nhóm chuyên đề được thành lập gồm:
 Nhóm Môi Sinh:  Nhóm Gia Cư:  Nhóm Nông Nghiệp:  Nhóm Hầm Mỏ:  Nhóm Y Tế:  Nhóm Kỹ Thuật, Giáo Dục và Nghiên Cứu:
Trong các nhóm chuyên đề, những vấn đề sau đây đã được soạn thành Pháp lệnh để trình Quốc hội thông qua, và giao chính quyền thi hành gấp là: - Tổ chức cơ chế y sĩ tự trị; - Chế độ tiền thưởng; - Chính sách lao động tự quản; - Quyền sở hữu.
Tiểu Ban Nghiệp Đoàn - Lao Động:
Họp từ 9/2 đến 4/4 gồm 11 lần giải quyết các vấn đề: 1) Phương thức hòa giải ý kiến khi có nhiều nghiệp đoàn trong một xưởng; 2) Phục hồi công việc cho những người bị đuổi việc sau thời gian công bố lệnh khẩn trương toàn quốc; 3) Trả lại các tài sản của Công Đoàn Đoàn Kết bị chính quyền tịch thu. Tiểu Ban này chỉ lập ra hai nhóm: 1) Soạn thảo luật nghiệp đoàn nông dân; 2) Soạn thảo các điều tu sửa luật lao động.
Tiểu Ban Cải Cách Chính Trị:
Họp từ 10/2 đến 4/4 gồm 10 lần, giải quyết các vấn đề: 1) Chế độ tuyển cử Quốc hội; 2) Thành lập Thượng viện; 3) Tổng thống chế. Tiểu Ban này đã chia ra một số nhóm chuyên đề như sau:  Nhóm Pháp Luật và Tòa Án:  style='orphans: auto;widows: auto;-webkit-text-size-adjust: auto;-webkit-text-stroke-width: 0px; word-spacing:0px' alt=- class=puce v:shapes="_x0000_i1032"> Nhóm Thanh Thiếu Niên:   Nhóm Truyền Thông:   Nhóm Địa Phương Tự Trị và Lập Hội:
Trong tất cả các Tiểu ban, Nhóm Chuyên đề đều có những người chuyên môn tham dự, và mỗi bên, chính phủ cũng như Công Đoàn Đoàn Kết, đều cử 1 người vào tham dự. Riêng nhóm thảo luận về đa nghiệp đoàn, hầm mỏ, y liệu đều có người của Hội Nghị Các Nghiệp Đoàn Toàn Quốc tham gia. Trong các cuộc thảo luận của Hội Nghị Bàn Tròn, dư luận chú ý nhiều vào nội dung thảo luận của Tiểu ban Cải cách chính trị. Theo tiểu ban này, hai bên đồng ý chia 460 ghế hạ viện ra như sau: 60% ghế dành cho đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan, Đảng Dân Chủ và đảng Nông Dân Thống Nhất Ba Lan, 5% ghế cho những đoàn thể ngoại vi của đảng cầm quyền (3 nhóm Thiên Chúa Giáo có khuynh hướng ủng hộ chính quyền) và 35% ghế còn lại cho những người ứng cử tự do, thực tế là của Công Đoàn Đoàn Kết.
Tiểu ban này còn thảo luận về việc thành lập Thượng viện, và có nên để cho cơ chế này có quyền phủ quyết những dự luật dù đã đươc thông qua ở Hạ viện, cũng như có quyền thẩm định tư cách của Viện Trưởng Viện Kiểm Tra Tối Cao, những viên chức tư pháp. Hội Nghị Bàn Tròn cũng đã thảo luận sôi nổi về quyền hạn của Tổng Thống. Hai bên đồng ý là Tổng Thống có quyền chỉ định Thủ tướng, có quyền phủ quyền các dự luật của Hạ viện, có quyền giải tán Quốc hội. Tổng thống là tư lệnh tối cao của quân đội, có toàn quyền ban hành lệnh thiết quân luật. Đặc biệt chức vụ Tổng thống đầu tiên trong kỳ này sẽ do Quốc hội biểu quyết, chứ không tổ chức tuyển cử trực tiếp. Sau cùng hai bên cũng đã thỏa thuận là không chia số phần trăm ghế cho các đảng phái trong Thượng Viện mà để ứng cử tự do. Thượng viện có 100 ghế.

Công đoàn Đoàn Kết đại thắng trong cuộc bầu cử Quốc hội.
Căn cứ trên những thỏa thuận trong Hội Nghị Bàn Tròn giữa chính quyền và Công Đoàn Đoàn Kết, cuộc bầu cử Quốc hội đã diễn ra hai lần vào ngày 4 và 18/6/1989 (nếu trong lần bầu đầu mà ứng viên không đạt trên quá bán thì sẽ phải bầu lại lần thứ hai trong số ứng viên đứng thứ 1 và thứ 2). Kết quả của lần bầu đầu tiên vào ngày 4/6, Công Đoàn Đoàn Kết đã thắng vẻ vang, vượt ra ngoài dự liệu của mọi người.
Tại Hạ Viện, trong số 161 ghế dành cho những ứng viên không thuộc đảng phái, thì ngay trong vòng bầu đầu, người của Công Đoàn Đoàn Kết thắng 100%, tức chiếm 161 ghế. Nếu tỷ lệ số ghế chia cho những ứng cử viên không phe phái nào nhiều hơn, hay để cho dân tự do tuyển chọn thì có lẽ số ghế của Công Đoàn Đoàn Kết còn cao hơn nữa. Mặt khác, trong số những ứng viên ra tranh cử của đảng cầm quyền, ứng cử toàn quốc có 35 người thì có 33 người đã không đủ túc số quá bán nên thất cử như Thủ tướng Mieczyslaw Rakowski, Bộ trưởng Nội vụ Czeslaw Kiszczak, Ủy viên Bộ chính trị Jozef Czyrek. Lúc đầu chính quyền không dự định tổ chức cuộc bầu cử toàn quốc lần thứ hai vào ngày 18/6, vì nghĩ là phe chính quyền toàn thắng. Nhưng trước kết quả này, chính quyền Cộng sản đã cấp tốc tổ chức bầu cử lần thứ hai.
Sau hai lần bầu cử, kết quả số ghế giữa các đảng như sau: Đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (đảng đang cầm quyền) được 173 ghế (chiếm 38% số phiếu bầu); Công Đoàn Đoàn Kết được 161 ghế (chiếm 35% số phiếu bầu); Đảng Nông Dân Thống Nhất (ngoại vi của đảng cầm quyền) được 76 ghế (chiếm 17% số phiếu); đảng Dân Chủ (ngoại vi của đảng cầm quyền) được 27 ghế (chiếm 6% số phiếu), Liên Minh các tổ chức Thiên Chúa Giáo được 23 ghế (chiếm 5% số phiếu). Tại Thượng Viện, Công Đoàn Đoàn Kết toàn thắng vì trong 100 ghế ở Thượng Viện, Công Đoàn chiếm 99 ghế, 1 ghế của người không liên hệ đảng phái.
Trước sự thất bại trong cuộc bầu cử, Ban chấp hành Trung ương đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan đã nhóm họp vào ngày 17/7/1989, quyết định triệu tập đại hội đảng lâm thời vào năm 1990 để tìm một hướng đi mới cho đảng. Trong hội nghị này, Trung ương đảng đã bầu Mieczyslaw Rakowski làm Đệ nhất bí thư thay thế Jaruzelski ra ứng cử Tổng thống (theo luật Ba Lan thì Tổng thống không theo một đảng phái nào). Ngày 27/1/1990, đại hội đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan tuyên bố giải tán, và tái lập với tên mới là Liên Minh Dân Chủ Tả Phái.
Mặc dù Công Đoàn Đoàn Kết chiếm nhiều ghế nhất trong hai viện, nhưng ở Hạ Viện, số ghế của đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan cộng chung với các đảng ngoại vi (đảng Nhân Dân Thống Nhất, đảng Dân Chủ) vẫn chiếm ưu thế (276 ghế) nên đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan có nhiều thuận lợi hơn trong việc tuyển chọn Tổng thống (nhiệm kỳ đầu do Quốc hội bầu) và Thủ tướng.
Sau những dàn xếp nội bộ giữa các đảng phái, ngày 19/7/1989, toàn thể lưỡng viện Quốc hội đã bầu Wojciech Jaruzelski làm Tổng thống với tư cách không đảng phái. Ngày 2/8/1989, Hạ Viện đã bỏ phiếu đồng ý việc tổng từ chức của nội các Rakowski. Sau đó, Quốc hội biểu quyết vai trò Thủ tướng của cựu Bộ Trưởng Nội vụ Kiszczak do tân Tổng thống Wojciech Jaruzelski chỉ định. Việc chỉ định Czeslaw Kiszczak làm Thủ tướng đã bị một số dân biểu trong đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan chống đối cùng với sự hỗ trợ của một phần dân biểu trong Công Đoàn Đoàn Kết. Trong khi dân biểu của hai đảng ngoại vi của đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan là đảng Dân Chủ và đảng Nông Dân Thống Nhất lại ủng hộ Czeslaw Kiszczak, nên việc tuyển chọn Kiszczak làm Thủ tướng có gặp trở ngại lúc đầu, nhưng cuối cùng đã được Hạ Viện biểu quyết thông qua. Tuy nhiên việc thành lập nội các của tân Thủ tướng Czeslaw Kiszczak vô cùng khó khăn, vì phe Công Đoàn Đoàn Kết không tham gia thì nội các của Thủ tướng Kiszczak sớm muộn gì cũng bị lật đổ.
Trước tình thế gay cấn này, ngày 7/8, Lech Walesa đề nghị ba đảng gồm: Công Đoàn Đoàn Kết, đảng Dân Chủ và đảng Nông Dân Thống Nhất ra lập nội các. Đảng Nông Dân Thống Nhất và đảng Dân Chủ vốn đang bất mãn về việc thành lập chính quyền liên hiệp với đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan, nên đã muốn ngã về giải pháp của Walesa. Trước sự hỗn loạn của tình hình, ngày 16/8/1989, Czeslaw Kiszczak tuyên bố rút lui ý định ra làm Thủ tướng. Ngày 19/8, sau khi thảo luận với Lech Walesa, Tổng thống Wojciech Jaruzelski đã chỉ định Luật sư Tadeusz Mazowieckj của Công Đoàn Đoàn Kết làm Thủ tướng. Trong ngày này, Trung Ương Đảng của Đảng Công Nhân Thống Nhất (Cộng sản) tổ chức hội nghị khẩn cấp, cực lực chỉ trích hành động "xé rào" của hai đảng ngoại vi là đảng Nông Dân Thống Nhất và đảng Dân Chủ. Bộ chính trị còn ra một thông cáo cho rằng sự hợp giữa Công Đoàn Đoàn Kết với hai đảng ngoại vi là một âm mưu chính trị đen tối. Tuy nhiên tiếng nói của Bộ chính trị vào lúc này đã không còn có giá trị như trước.
Ngày 24/8/1989, Hạ Viện bỏ phiếu tín nhiệm Luật sư Taduesz Mazowieckj làm Thủ tướng. Taduesz Mazowieckj nguyên là thành phần Công giáo trí thức dấn thân, đã từng hoạt động nhiều năm bên cạnh Giáo Hội Công Giáo Ba Lan, với tư cách là một ký giả. Năm 1980, khi Công Đoàn Đoàn Kết thành lập, Taduez Mazowieckj tham gia, làm chủ bút tờ báo Solidarnosc của Công Đoàn. Sau khi nhậm chức, Taduesz Mazowieckj đã tiến hành việc thành lập chính phủ liên hiệp nhiều thành phần, nhưng cũng bị nhiều áp lực nặng nề từ phía Liên Xô. Công Đoàn Đoàn Kết phải nhường cho đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (Cộng sản) nắm ba bộ quan trọng có liên hệ đến Liên Xô lúc đó là Bộ Quốc phòng, Bộ Quan hệ Kinh tế Đối ngoại, Bộ Truyền thông và Vận chuyển. Thành phần nội các gồm:
  Phía Công Đoàn Đoàn Kết giữ 11 Bộ, gồm 6 Bộ có thực quyền cải cách là Bộ Tài chánh, Bộ Công nghiệp, Bộ Gia cư, Bộ Lao động, Bộ Văn hóa, Bộ Giáo dục, và 5 bộ có tính cách hành chánh, tham mưu là Bộ Phủ Thủ tướng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban phát triển nông thôn, Chủ nhiệm Ủy ban liên hệ các đảng phái. Công Đoàn Đoàn Kết được đề cử một nhân vật làm Phó Thủ Tướng.
 Ba đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (cộng sản), đảng Dân Chủ, đảng Nông Dân Thống Nhất mỗi đảng được đề cử 1 Phó Thủ Tướng và giữ một số bộ. Đảng Nông Dân Thống Nhất giữ Bộ Nông nghiệp, Bộ Tư pháp, Bộ Y tế và Môi sinh; đảng Dân Chủ giữ Bộ Nội thương, Bộ Kỹ thuật và Truyền thông. Đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan giữ thêm Bộ Nội vụ.

Những chính sách cải cách của Công đoàn Đoàn Kết.
Ngày 12 tháng 9 năm 1989, Thủ tướng Mazowieckj đọc diễn văn nhậm chức trước lưỡng viện trình bày hai nhiệm vụ chiến lược của chính quyền mới là thực hiện cải cách chính trị và kinh tế, trong đó cải cách chính trị là ưu tiên. Trên lãnh vực cải cách chính trị, Thủ tướng Mazowieckj chú trọng vào việc xây dựng một nhà nước pháp trị, đặc biệt là sớm hình thành chế độ tư pháp độc lập, kiện toàn chức năng của các tòa án. Trên lãnh vực cải cách kinh tế, Mazowieckj cho áp dụng nguyên lý thị trường, giảm thiểu chế độ bao cấp, cải cách chế độ ngân hàng và thuế khóa, bảo vệ môi sinh, cải tiến nhà cửa. Vấn đề xây dựng chế độ tư pháp độc lập, đã trở thành đề tài chính của phiên họp nội các vào ngày 25/9/1989, đưa đến quyết định thành lập một Hội nghị tư vấn cho Thủ tướng để nghiên cứu và soạn thảo Pháp lệnh về tòa án. Hội nghị này quy tụ những thẩm phán tối cao, chuyên viên pháp luật và một dân biểu Hạ viện. Song song, Thủ tướng Mazowieckj đã chỉ định Bộ trưởng phủ Thủ tướng phụ trách việc soạn thảo chế độ địa phương tự trị, để cải tổ lại cơ cấu hành chánh địa phương, loại trừ những ảnh hưởng của chế độ cộng sản cũ. Ngày 25 tháng 1 năm 1990, Hạ viện đã thông qua một số pháp lệnh liên quan về việc thiết lập chế độ địa phương tự trị và chuẩn bị bầu cử cấp hành chánh địa phương vào ngày 27 tháng 5 năm 1990.
Nội các Taduesz Mazowieckj trực diện một vấn đề khó khăn phải giải quyết là nạn lạm phát phi mã. Đây là một trở ngại trong việc thực hiện chính sách cải cách kinh tế nếu không có sự hỗ trợ của các định chế tài chánh quốc tế. Vì vậy, sau khi nhậm chức ngày 13 tháng 9, Bộ Trưởng Tài chánh Leszek Balcerowicz đã cấp tốc soạn thảo "Kế Hoạch Cải Tổ Kinh Tế Cơ Bản", gồm hai phần: 1) Chính sách ổn định kinh tế; 2) Cải cách chế độ kinh tế. Sau đó ông sang Hoa Thịnh Đốn để trình bày kế hoạch này cho Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân Hàng Thế Giới, nhằm kêu gọi sự tài trợ, trước khi kế hoạch này công bố chính thức ở trong nước. Sự kiện này đã tạo ra một luồng dư luận chống đối trong nước, cho rằng tại sao kế hoạch cải cách kinh tế của Ba lan mà lại phổ biến trước ở Hoa Kỳ. Mặc dù vậy, các đảng phái trong nước đều công nhận rằng dự án cải cách kinh tế của Bộ Trưởng Tài chánh khả thi với điều kiện phải có sự viện trợ của Tây phương và hậu thuẫn của các định chế tài chánh quốc tế.
Theo kế hoạch này, trong năm 1990, để thực hiện chính sách ổn định kinh tế một cách thành công, trước tiên Ba Lan phải khắc phục được nạn lạm phát phi mã. Giải pháp đưa ra là cải tổ chế độ về lương bổng, giá cả, tiền tệ lưu hành và ngân sách. Sau khi đạt được những vấn đề này, Ba Lan sẽ dựa theo một số mô hình kinh tế của các nước Tây phương để cải cách chế độ kinh tế. Từ cuối năm 1989, nội các Mazowieckj tập trung soạn thảo gần 20 Pháp lệnh liên quan đến chế độ tài chánh, thuế khóa, ngoại tệ, lương bổng, giá cả... để trình cho Quốc hội thông qua. Từ đầu năm 1990, dựa theo những Pháp lệnh này, nội các Mazowieckj bắt đầu "giải phẩu" con bệnh kinh tế Ba Lan. Trong thời gian đó, Quốc hội Ba Lan cũng đã tu sửa hiến pháp, bỏ điều khoản công nhận đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan là đảng lãnh đạo duy nhất, và chấm dứt việc theo đuổi đường lối xã hội chủ nghĩa. Sửa tên nước từ Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan thành Cộng Hòa Ba Lan.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 1990, nội các Mazowieckj cho áp dụng chế độ tài chánh mới, và cho tự do mậu dịch, đồng thời tăng tiền điện, tiền giao thông công cộng. Ngoài ra nhờ sự tài trợ của các định chế tài chánh quốc tế qua việc thành lập quỹ ổn định tiền tệ lên đến 1 tỷ Mỹ kim, Ba Lan cho phá giá đồng Zloty 30% và hối suất được định so với một số ngoại tệ. Nhờ những chính sách này đã giúp cho tình hình kinh tế thay đổi, nhất là lạm phát ba con số trong năm 1989 xuống còn hai con số vào giữa năm 1990. Cảnh sắp hàng dài chờ mua thực phẩm đã biến mất, thay vào đó nhiều cửa hàng lộ thiên được thiết lập với nhiều hàng hóa đủ loại. Vào giai đoạn đó, Ba Lan có vào khoảng 500 ngàn người thất nghiệp (3,8%) nhưng chưa là vấn đề lớn đối với chính quyền. Cuối tháng 7 năm 1990, nội các Mazowieckj bắt đầu kế hoạch giải tư khoảng 7.600 xí nghiệp quốc doanh, căn cứ theo Pháp lệnh về xí nghiệp quốc doanh và tư doanh, được Quốc hội thông qua vào ngày 13 tháng 7. Mục tiêu của Pháp lệnh này nhằm chuyển phân nửa tài sản nhà nước qua khu vực tư doanh trong ba năm và gần 100% trong 5 năm. Theo Pháp lệnh này thì các xí nghiệp nhỏ thuộc khu vực thương nghiệp, bán lẻ, giao thông và xây dựng được giải tư theo thủ tục đơn giản. Cho đến cuối tháng 9 năm 1991, nội các Mazowieckj đã giải tư 75% khu vực thương nghiệp bán lẻ, 45% xí nghiệp xây cất và 80% xí nghiệp vận tải.
Phần lớn các xí nghiệp trên đã được các cấp hành chánh địa phương bán lại cho tư nhân. Liên quan đến xí nghiệp lớn, nội các Mazowieckj cho phép các ban giám đốc tự đánh giá trên thị trường trong và ngoài nước để giải tư, qua ba thủ tục: 1) Bán tài sản hiện hữu; 2) Mang tài sản hiện hữu và tài sản nợ cho một công ty liên doanh (khoảng 10%); 3) Các cán bộ và công nhân thành lập công ty với mục đích mua lại tài sản hiện hữu và tài sản nợ của xí nghiệp bị giải thể. Có đến 90% xí nghiệp đã giải tư qua hình thức này. Song song, nội các Mazowieckj cũng đã tiến hành việc tư hữu hóa đất đai. Đặc điểm của Ba Lan là khu vực tư nhân chiếm 80% đất nông nghiệp, nên tư hữu hóa nhắm vào 20% đất còn lại, qua hai hình thức: 1) Gần 700 ngàn héc ta của 2.200 Hợp tác xã; 2) Gần 1 triệu héc ta của 1.200 nông trường của nhà nước đang nuôi gần 500 ngàn lao động. Phần đông các nông trường gặp khó khăn khi Ba Lan cắt chế độ bao cấp và có khoảng 500 nông trường ở trong tình trạng hầu như phá sản. Ngoài ra, để giải quyết các tài sản của dân chúng bị đảng cộng sản Ba Lan đã quốc hữu hóa trong quá khứ, Thủ tướng Mazowieckj chỉ định Bộ Tài chánh tiến hành việc nghiên cứu soạn thảo các Pháp lệnh cần thiết để xúc tiến việc hoàn trả lại cho dân trong thời gian nhanh nhất.

Sự bế tắc của Nội các Taduesz Mazowieckj.
Nội các Mazowieckj thừa hưởng một gia tài đổ nát, nợ ngoại trái ngập đầu, đạo đức xã hội băng hoại trầm trọng nên các chính sách dù có thực tế đến đâu, mà trì lực của di sản cộng sản quá lớn, khiến cho các chương trình cải cách không tiến hành như ý muốn. Hơn nữa, nội các Thủ tướng Mazowieckj là chính quyền liên hiệp, mặc dù ông cố gắng tiến hành các chính sách cải tổ, nhưng một số bộ do phe cựu cộng sản nắm giữ, cố tình gây trở ngại để làm mất uy tín phe Công Đoàn Đoàn Kết. Một điểm quan trọng khác là tuy Công Đoàn Đoàn Kết nắm giữ những vị trí then chốt ở cơ chế chính quyền trung ương, nhưng trong thực tế khi tiến hành các dự án cải tổ ở địa phương, phần lớn nhân sự thừa hành đều là cán bộ cũ của đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan. Những người này không thể thay thế mà phải lưu dụng vì hai nguyên do: - Sa thải quá nhiều tạo xáo trộn xã hội; - Chưa có người đủ kinh nghiệm ở địa phương để thay thế.
Nắm được điểm yếu này của chính quyền Công Đoàn Đoàn Kết, các cán bộ cộng sản cố tình làm sai hoặc không giải quyết, làm tăng thêm sự bất mãn của quần chúng. Nhưng khó khăn của nội các Mazowieckj không chỉ có thế. Tình trạng phe nhóm bắt đầu xảy ra trong nội bộ Công Đoàn Đoàn Kết, khi Bronislaw Geremek, thủ lãnh của nhóm dân biểu Công Đoàn Đoàn Kết trong quốc hội, vốn là một "ứng viên" Thủ tướng sáng giá, muốn đẩy mạnh việc thành lập hẳn một chính đảng hoạt động công khai. Mục tiêu của Bronislaw Gremek là muốn tổ chức hóa Công Đoàn thành chính đảng để từng bước riệt tiêu sự tồn tại của đảng cộng sản. Suy nghĩ này của Bronislaw Gremek đã đe đọa mối "giao tình" vốn đã bấp bênh giữa Công Đoàn Đoàn Kết với đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan, sớm đi đến đối nghịch. Trong khi đó, mặc dù lãnh tụ Lech Walesa không nắm giữ một chức vụ nào quan trọng trong chính quyền, nhưng ông có một ảnh hưởng sâu rộng không chỉ trong nội bộ Công Đoàn Đoàn Kết mà còn đối với chính giới trong nước và ngoại quốc. Ông đã dùng ảnh hưởng này áp lực chính quyền Taduesz Mazowieckj xúc tiến nhanh vấn đề cải cách chính trị để cải thiện guồng máy hành chánh các cấp trung ương lẫn địa phương. Lech Walesa cũng đã than phiền nội các không tích cực trong việc truy tố ra tòa những tướng lãnh công an nhúng tay vào vụ giết Linh Mục Jezy Popieluszki, hồi tháng 10 năm 1984.
Từ tháng 5 năm 1990, các cuộc đình công của Công Đoàn Đoàn Kết để chống lại kế hoạch cải tổ tài chánh của Balcerowicz bùng nổ lớn. Đến mùa hè, nông dân cũng bắt đầu các cuộc chống đối đòi hỏi chính quyền phải tháo khoán các khoản tín dụng cho vay nhẹ lãi cũng như bảo vệ giá cả tối thiểu để các nông phẩm có điều kiện cạnh tranh với các mặt hàng khác. Đảng Thống Nhất Nông Dân lợi dụng sự đòi hỏi của nông dân, tạo thêm nhiều áp suất lên chính quyền Công Đoàn và làm bùng nổ sự đối lập giữa các đảng trong nội các Mazowieckj về những chính sách đối với nông dân và công nhân. Sau đó, đảng Thống Nhất Nông Dân rút lui khỏi nội các, khiến cho Mazowieckj lúng túng và trở thành mục tiêu tấn công của nhiều lực lượng chính trị quần chúng, trong đó có cả những thành viên của Công Đoàn Đoàn Kết.
Những dấu hiệu rạn nứt trong nội bộ Công Đoàn Đoàn Kết đã thấy xuất hiện giữa thành phần trí thức của Công Đoàn (tập trung quanh tờ báo Gazeta của Công Đoàn) với các hạ tầng cơ sở Công Đoàn, qua những chính sách ưu tiên ban hành của chính quyền Mazowieckj. Phe trí thức đòi hỏi chính quyền phải ưu tiên cải tổ chính trị, điều chỉnh hệ thống kiểm soát, và quy chế truyền thông. Trong khi các hạ tầng cơ sở Công Đoàn thì coi việc giải quyết vấn đề thực phẩm, lương bổng là ưu tiên hàng đầu của công nhân. Khi Công Đoàn Đoàn Kết ra thành lập chính quyền liên hiệp, một số nước Tây phương hứa sẽ viện trợ để nhanh chóng phục hồi nền kinh tế lụn bại. Nhưng ngoài những lời cố vấn về kỹ thuật để gầy dựng cơ cấu kinh tế thị trường, các nước Tây phương hầu như không tháo khoán toàn bộ những số tiền đã hứa. Trong khi đó, những khó khăn bắt đầu xuất hiện từ hàng ngũ công nhân, khi thấy là "người của họ" đã không những không ổn định được vật giá, mà còn có chiều hướng áp dụng chính sách thắt lưng buộc bụng, không cho tăng lương. Từ những khó khăn này, nội bộ Công Đoàn chia là hai phe, đứng đầu mỗi phe là Walesa và Mazowieckj, đối nghịch nhau về phương cách giải quyết vấn nạn Ba Lan. Sự đối nghịch này phát tác mỗi ngày một lớn, tạo ra sự tranh chấp công khai giữa Walesa và Mazowieckj trên mặt báo và nhất là trong cuộc tranh cử Tổng thống được tổ chức vào ngày 18 tháng 10 và 18 tháng 11 năm 1990.
Trong tình thế đó, đa số quần chúng mong muốn Walesa ra lãnh đạo Ba Lan, vì với uy tín có sẵn, Walesa có thể tạo một gạch nối rất tốt giữa chính quyền với quần chúng, để vận động mọi giới tham gia đóng góp vào công cuộc phục hưng Ba Lan. Ngày 12 tháng 5 năm 1990, giới trí thức và một số thành phần lãnh đạo Công Đoàn ở địa phương ủng hộ Lech Walesa lập ra tổ chức Liên Minh Trung Ương (Centre Alliance) để vận động phiếu cho Walesa ra tranh cử Tổng thống. Trong khi đó, ngày 16 tháng 7, những người ủng hộ Mazowieckj thành lập tổ chức Phong Trào Dân Sự Dân Chủ Hành Động (Citizens’ Movement Democratic Action). Lúc đầu cả hai nhóm biết tự chế, tạo những liên hệ với nhau, vì cùng chung một gốc là Công Đoàn. Nhưng càng ngày cả hai đã đưa ra một số lập trường và quan điểm chính trị khác biệt, khiến cho nội bộ Công Đoàn Đoàn Kết bắt đầu phân rã trầm trọng. Xu hướng của nhóm Liên Minh Trung Ương (phe ủng hộ Walesa) thiên về cánh hữu, theo chủ nghĩa dân túy (populist), tôn trọng truyền thống dân tộc và ngã về khuynh hướng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo. Trong khi nhóm Phong Trào Dân Sự Dân Chủ Hành Động (phe ủng hộ Mazowieckj) thì theo chủ nghĩa tự do, tiến bộ, thiên về cánh tả. Mặc dù khuynh hướng chính trị có khác nhau, nhưng chủ đề chính mà hai nhóm đưa ra trong cuộc bầu cử Tổng thống vẫn là đề tài kinh tế.

Lech Walesa được bầu làm Tổng thống.
Cuộc bầu cử Tổng thống Ba Lan được tổ chức hai lần, lần I vào ngày 18 tháng 10 và lần II vào ngày 18 tháng 11 năm 1990, với ba đối thủ, hai người trong Công Đoàn Đoàn Kết là Lech Walesa và Taduesz Mazowieckj, người thứ ba là một thương gia Gia Nã Đại, gốc Ba Lan, làm ăn tại Peru, tên là Stanislaw Tyminskj. Sự xuất hiện của nhân vật Stanislaw Tyminskj đã làm cho hai phe trong Công Đoàn bối rối, còn quần chúng thì vừa ngạc nhiên, vừa chờ đợi "phép lạ" làm giàu của Tyminskj. Khi nộp đơn tranh cử, cử tri Ba Lan chỉ thoáng biết rằng Tyminski đã rời Ba Lan bằng chiếu khán du lịch năm 1969, đến Gia Nã Đại học ngành kỹ thuật điện toán, năm 1975 thành lập hãng Transduction sản xuất các hệ thống điện toán cho công xưởng và nhà máy điện lực, trở thành một triệu phú tại Toronto. Năm 1982, Tyminskj sang Peru thành lập hãng truyền hình và cưới vợ tại đây, ông đã nhiều lần về Ba Lan du lịch qua ngả Libya trong thập niên 80.
Kết quả cuộc bầu cử vòng đầu vào ngày 18 tháng 10 năm 1990, Lech Walesa đứng thứ nhất nhưng chỉ chiếm được 40% phiếu cử tri, thương gia Stanislaw Tyminskj đã vượt hơn Taduesz Mazowieckj đứng hàng thứ hai với 23% phiếu, còn Mazowieckj thua cuộc đứng hàng thứ ba với 20% phiếu. Mặc dù trên tổng thể, Tyminskj thua phiếu Walesa, nhưng ở một số địa phương, Tyminskj đã có số phiếu cao hơn Walesa, nhất là vùng công nhân hầm mỏ tại Katowice. Điều này cho thấy là tuy Tyminskj không được cử tri biết đến nhiều nhưng khẩu hiệu tranh cử "làm giàu dân Ba Lan" đáp ứng được sự chờ đợi và mong muốn giàu có nhanh của quần chúng. Trong khi đó, những lời hứa hẹn khá sôi nổi nhưng có vẻ thiếu giải pháp của Lech Walesa lúc tranh cử cũng đã là một dữ kiện khiến Walesa không chiếm được đa số phiếu như mong đợi.
Tình trạng này đã đặt cho nội bộ Công Đoàn Đoàn Kết một nhu cầu sinh tử là phải đoàn kết một khối, dồn phiếu cho Walesa nếu không muốn thất bại trong lần bầu cử vòng hai giữa Lech Walesa và Tyminskj vào ngày 18 tháng 11. Kết quả là Lech Walesa chiếm được 75% phiếu, Tyminskj chiếm được 25% phiếu. Lech Walesa đã chính thức trở thành Tổng thống dân cử đầu tiên của nước Ba Lan tự do vào ngày 22 tháng 12 năm 1990 (có nhiệm kỳ 5 năm).
Sau khi nhận chức Tổng thống, Lech Walesa đã chỉ định nhà kinh tế Jan Krzysztof Bielecki thay thế Luật sư Taduesz Mazowieckj vào trách nhiệm Thủ tướng mới trong cuộc họp Quốc Hội vào đầu năm 1991. Tuy nhiên nội các này cũng không giải quyết tình hình được sáng sủa. Mặc dù bên Công Đoàn Đoàn Kết cố gắng đẩy mạnh các cải cách kinh tế, nhưng vẫn bị đắp mô bởi 65% ghế của đảng viên cộng sản Ba Lan tại Hạ Viện. Tổng thống Walesa nóng lòng yêu cầu Quốc hội cho Hành Pháp thêm quyền. Ngày 27 tháng 10 năm 1991, Ba Lan tổ chức cuộc tổng tuyển cử tự do đầu tiên sau Đệ Nhị Thế Chiến, nhưng có quá nhiều đảng phái ra tranh cử. Kết cuộc là, mặc dù phe Công Đoàn Liên Đới xuất hiện với hai tập hợp chính trị mới là Liên Minh Trung Ương (ủng hộ Walesa) và Phong Trào Dân Sự Dân Chủ Hành Động của cựu Thủ Tướng Taduesz Mazowieckj lãnh đạo có số phiếu cao nhất, so với đảng Liên Minh Dân Chủ Tả Khuynh (hậu thân của đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan), nhưng không có đảng nào chiếm quá 13% tổng số phiếu cử tri trên toàn quốc. Cuộc bầu cử này đã mở ra giai đoạn hỗn loạn về đảng phái trong chính trường Ba Lan.
Liên Minh Trung Ương của Tổng thống Walesa đã liên kết với các đảng hữu khuynh thành lập chính phủ liên hiệp. Tổng thống Walesa đã chỉ định Bronislaw Geremek ra làm Thủ tướng, và được Quốc hội thông qua trong kỳ họp vào tháng 12 năm 1991. Tuy nhiên chính phủ liên hiệp này cũng đã không thể tiến hành cải cách kinh tế lẫn chính trị được êm xuôi, và lại bùng nổ sự đối lập giữa Tổng thống và Quốc hội ngày một gay gắt, làm cho tình hình chính trị vốn bất ổn càng thêm rối ren. Tình hình này dẫn cuộc đình công quy mô của 80 ngàn công nhân vào tháng 4 năm 1992 khiến cho nội các Geremek sụp đổ. Tổng thống Walesa lại chỉ định Waldemar Pawlar, chủ tịch đảng Nông Dân Ba Lan (hậu thân của đảng Thống Nhất Nông Dân Ba Lan, một đảng ngoại vi của đảng Cộng sản Ba Lan trước đây, nhưng từ năm 1989 hoạt động rất gần với Tổng thống Walesa) lên làm Thủ tướng. Tuy nhiên các đảng còn lại cực lực chống đối, rốt cuộc Pawlar không tổ chức được nội các và xin rút lui. Mãi cho đến tháng 7 năm 1992, Tổng thống Walesa mới chỉ định được một người nữ lên làm Thủ tướng là bà Hanna Suchocka của Liên Minh Trung Ương (phe cựu Công Đoàn của Tổng thống Walesa), được hầu hết các đảng trong Hạ viện đồng ý.
Trong thời gian đó, để ngăn chận sự hỗn loạn chính trị, Tổng thống Lech Walesa đã đề nghị Quốc hội thông qua đạo luật "Quyền Tối Khẩn Cho Tổng Thống" vào tháng 5 năm 1992, đồng thời tháng 8 đưa qua Quốc hội một số tu chính hiến pháp để tăng cường quyền hạn của Tổng thống và Thủ tướng trong việc điều hành quốc gia. Cả hai đạo luật này đã được lưỡng viện thông qua. Tuy nhiên với 29 chính đảng hiện diện trong khung cảnh của một nền chính trị dân chủ giao thời, thiếu thốn mọi mặt, đã khiến cho nội các của nữ Thủ tướng Hanna Suchocka gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, bà đã đệ trình Quốc hội dự luật ngăn ngừa sự loạn lập các tiểu chính đảng. Mặc dù dự luật này được Quốc hội thông qua, nhưng điều này đã khiến bà trở thành mục tiêu tấn công của các đảng phái tả khuynh. Cuối cùng các phe tả đã liên đới đệ trình luật bất tín nhiệm nội các của nữ Thủ tướng Hanna Suchocka ở Hạ Viện. Quốc hội đã biểu quyết với đa số phiếu bất tín nhiệm chính phủ, nội các nữ Thủ tướng Suchocka phải tổng từ chức để tái tổ chức tổng tuyển cử.

Phe Cựu cộng sản chiếm ưu thế trong Quốc hội.
Ngày 13 tháng 9 năm 1993, Ba Lan đã tổ chức cuộc tổng tuyển cử tự do lần thứ hai, theo luật tuyển cử mới được soạn thảo trong thời nội các của Thủ tướng Hanna Suchocka. Theo luật mới này, mỗi đảng muốn ra tranh cử phải có trên 5% phiếu cử tri thì mới hợp lệ. Luật này đã loại được những chính đảng nhỏ trong số 29 đảng phái trước đây trong Quốc hội và chỉ còn lại 6 chính đảng lớn. Trong cuộc bầu cử này, đảng Liên Minh Dân Chủ Tả Khuynh (cựu cộng sản) thắng thế đứng hàng thứ nhất chiếm 20,4% phiếu cử tri toàn quốc với 171 ghế, Đảng Nông Dân chiếm 15,4% phiếu, với 132 ghế trở thành đảng đứng thứ hai, hai nhóm Liên Minh Trung Ương và Phong Trào Thị Dân Dân Chủ Hành Động của Công Đoàn Đoàn Kết chỉ chiếm được 12% phiếu cử tri, tụt xuống hàng thứ ba và thứ tư.
Tổng số dân biểu của hai nhóm tả khuynh cựu cộng sản gồm Liên Minh Dân Chủ Tả Khuynh và đảng Nông Dân Ba Lan chiếm hơn 2/3 ghế trong Hạ viện. Hai nhóm này đã liên hiệp thành lập chính quyền tả khuynh đầu tiên sau cuộc chính biến ở Ba Lan vào năm 1989, Waldemar Pawlar, chủ tịch đảng Nông Dân Ba Lan được đề cử làm Thủ tướng. Tuy theo khuynh hướng tả phái, Thủ tướng Waldemar Pawlar chủ trương tiếp tục thi hành các chính sách cải tổ do Công Đoàn Đoàn Kết đưa ra trước đó. Cho đến tháng 10 năm 1994, nội các Pawlar đã đẩy lùi được nạn lạm phát xuống còn 30%, so với các năm trước lên đến ba con số. Sản lượng công nghiệp tăng 13%, xuất cảng tăng 20% so với năm 1993. Tuy nhiên tình trạng thất nghiệp vẫn lan rộng lên đến 15%, và thay đổi theo từng khu vực. Theo thống kê vào tháng 11 năm 1994, nạn thất nghiệp ở thủ đô Warsaw là 7,7%; thành phố Poznan là 8,3% và thành phố Kosharin lên đến 28,3%.
Tình hình chính trị Ba Lan trở nên xáo trộn vào cuối năm 1994, khi Tổng thống Walesa đột nhiên cách chức hai nhân sự trong Hội đồng truyền thông, một cơ chế độc lập với chính phủ có nhiệm vụ cứu xét việc cấp giấy phép hoạt động cho các cơ quan truyền thông vào tháng 9. Sự kiện này đã tạo bất mãn trong dư luận vì cho là Tổng thống đã nhúng tay quá nhiều vào các cơ chế vốn dĩ độc lập với chính quyền. Quốc hội đã đem vấn đề này ra thảo luận và biểu quyết với 305 phiếu phản đối hành động cách chức của Tổng thống. Quyết nghị này mở đường cho hàng loạt những công kích của các đảng vào vị trí Tổng thống của Lech Walesa. Vấn đề nói trên chưa lắng đọng, vào cuối tháng 10, Tổng thống Walesa lại cách chức Bộ trưởng Quốc phòng do sự xung đột về quyền hạn giữa chức vụ Tổng Tư lệnh quân đội của Tổng thống với sự trực tiếp điều hành quân đội của Bộ Quốc phòng. Quốc hội đã ra Nghị quyết cho rằng Tổng thống đã hành xử quyền hạn sai với hiến pháp, đồng thời việc cách chức Bộ trưởng quốc phòng của Tổng thống đã vượt qua thẩm quyền của Thủ tướng. Tổng thống Walesa cho rằng Quốc hội không có thẩm quyền ra Nghị quyết và yêu cầu thu hồi sự biểu quyết chống lại Tổng thống. Do những tròng chéo quyền hạn giữa Tổng thống, Quốc hội và nội các chính phủ chưa được phân định rõ ràng khiến cho tình hình chính trị Ba Lan liên tục gặp những trắc trở. Tổng thống thì muốn Quốc hội dành cho nhiều quyền hạn hơn để kiểm soát các hoạt động của chính phủ, trong khi Quốc hội thì chủ trương chính phủ do sự biểu quyết của Quốc hội nên phải để cơ chế này độc lập.
Sau khi phe cựu Cộng sản chiếm ưu thế trong Quốc hội, thì tiềm lực chính trị của phía Công Đoàn Đoàn Kết bắt đầu suy giảm, làm ảnh hưởng đến cuộc vận động tái ứng cử vào trách vụ Tổng thống của ông Lech Walesa. Từ đầu năm 1995, những chủ trương cải cách kinh tế của Liên Minh Dân Chủ Tả Khuynh (cựu cộng sản) như duy trì nền kinh tế theo hướng thị trường giống như Công Đoàn; nhưng mở rộng chế độ bảo hiểm xã hội, thận trọng trong việc giải tư xí nghiệp quốc doanh ảnh hưởng mạnh ở khu vực nông thôn nay bắt đầu nhận được sự ủng hộ của thành phần trí thức đô thị. Trong khi đó, Tổng thống Walesa thì chủ trương đẩy nhanh vấn đề giải tư, kêu gọi quần chúng thắc lưng buộc bụng đã tạo ra làn sóng bất mãn trong dân chúng.
Cuộc bầu cử Tổng thống Ba Lan lần thứ 3 sau biến cố năm 1988, đã diễn ra vào ngày 5 tháng 11 năm 1995 với 11 ứng cử viên, nhưng đối thủ quan trọng nhất của Lech Walesa là Aleksander Kwasniewski, đương kiêm Chủ tịch Liên Minh Dân Chủ Tả Phái. Kết quả cuộc bầu cử đã không có ai chiếm quá bán, nhưng điều bất ngờ cho Tổng thống Walesa là ông chỉ chiếm được 33,3% phiếu, về hạng nhì, trong khi ông Aleksander Kwasniewski về nhất chiếm 34,8%, và người về thứ ba là ông Jack Kron, nguyên cố vấn Công Đoàn chiếm 8,7% phiếu. Do đó, Ba Lan đã phải tổ chức bầu lại đợt hai vào ngày 20 tháng 11, với sự tranh nhau của hai ứng viên Walesa và Kwasniewski. Kết quả là Kwasniewski đã về nhất chiếm 51,72% còn Tổng thống Walesa thảm bại chỉ chiếm được 48,27% phiếu, mặc dù đã được ứng cử viên về ba là Jack Kron tuyên bố vận động dồn phiếu cho Walesa.
Rút tiả từ kết quả cuộc bầu cử cho thấy là phần lớn dân chúng Ba Lan muốn được thấy Ba Lan sớm thay đổi và kinh tế phục hồi. Nhưng suốt trong mấy tháng vận động, Tổng thống Walesa và bộ tham mưu của ông chỉ đề cập nhiều về quá khứ thảm họa cộng sản, kêu gọi mọi người cảnh giác không cho Cộng sản trở lại cầm quyền mà lại không cho thấy một viễn cảnh gì sáng suả hơn. Trong khi đó, Kwasniewski, chủ tịch Liên Minh Dân Chủ Tả Phái, 41 tuổi, đã đưa ra lời hứa là tiếp tục duy trì thể chế chính trị dân chủ mà Công Đoàn Đoàn Kết đã gầy dựng, nhưng sẽ cực lực làm cho kinh tế sớm phục hồi. Mặc dù sau khi lên cầm quyền, Tổng thống tả phái Kwasniewski cũng không thể đem Ba Lan ra khỏi khủng hoảng nhanh chóng, nhưng một số hướng cải tổ có tính cách xách động đã tác động đúng lúc lên tâm lý chờ đợi thay đổi của quần chúng sau gần 5 năm dài sống trong thời kỳ chuyển tiếp hậu Cộng sản.

III- Kết Luận:
Cuộc đấu tranh bền bỉ của Công Đoàn Đoàn Kết cùng với sự hậu thuẫn của lực lượng trí thức đã đưa cuộc cách mạng dân chủ tại Ba Lan đạt kết quả vẻ vang. Sự thắng thế của Công Đoàn Đoàn Kết trong cuộc tổng tuyển cử vào năm 1989, đã không chỉ nói lên khát vọng muốn thay đổi của người Ba Lan sau gần 40 năm dài dưới chế độ chuyên chế vô sản, mà còn là lực tác động lớn lao đến người dân các nước Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc và Đông Đức. Kết quả này còn đặt cho ông Gorbachev phải tiến hành chương trình cải cách chính trị ở Liên Xô vào năm 1990, sau khi đưa ra hai chương trình "cởi trói" và "tái phối trí" vào giữa năm 1985. Những diễn biến chính trị tại Ba Lan, với sự thắng thế từng bước của Công Đoàn Đoàn Kết đã là nguồn địa chấn dân chủ đầu tiên, làm rung chuyển Đông Âu, đưa đến việc hình thành những phong trào đấu tranh quần chúng tại các nước trong vùng. Qua những diễn tiến của cuộc cách mạng dân chủ ở Ba Lan, ta có thể rút ra một số điểm cơ bản như sau:
Trước hết, tại Ba Lan, thành phần công nhân lao động là lực lượng châm ngòi đấu tranh đầu tiên, nhưng sau đó nhờ sự tham gia và góp sức của lực lượng trí thức đã dùng các cuộc đình công để áp lực đảng Cộng sản Ba Lan phải thay đổi. Hội Nghị Bàn Tròn là mô thức nhượng bộ đầu tiên mà các đảng Cộng sản tại nhiều nước ở Đông Âu cũ như Hung Gia Lợi, Đông Đức, Bảo Gia Lợi, Tiệp Khắc... áp dụng để vừa gỡ thể diện nhượng bộ, vừa mua thời gian xoay chuyển tình hình. Trong khi đó, qua Hội Nghị Bàn Tròn, Công Đoàn Đoàn Kết đã thành công trong việc hợp pháp hóa Công Đoàn, chuyển đổi từ hình thức đấu tranh quần chúng sang đấu tranh chính trị công khai nghị trường. Nhưng để đạt được kết quả này, Công Đoàn Đoàn Kết đã trải qua những chặng đường đấu tranh gay go nhất, so với các lực lượng dân chủ ở những nước Đông Âu khác cùng thời.
Trong suốt thập niên 80, Công Đoàn Đoàn Kết liên tục bị đàn áp, khủng bố và thành phần lãnh đạo bị truy lùng gắt gao. Nhưng nhờ sự hậu thuẫn của Giáo Hội Công Giáo, qua những vị Linh Mục ở các địa phương tận tình che giấu, bí mật chuyển tài liệu cho Công Đoàn ở trong và ngoài nước, nên ngọn lửa đấu tranh của côngnhânliên tục được bùng cháy. Ngoài ra, nhờ các nước Tây phương, nhất là Tổng thống Reagan của Hoa Kỳ đã có những biện pháp áp lực mạnh mẽ lên chính quyền Cộng sản Ba Lan, như vừa công bố lệnh cấm vận đối với Ba Lan để đòi thu hồi lệnh thiết quân luật, vừa ngầm giúp đỡ Công Đoàn, qua Tổng Liên Đoàn Lao Động. Trong khi đó, trên mặt ngoại giao Hoa Kỳ tìm cách lôi kéo các nước có ý muốn tách rời khỏi Liên Xô. Nhờ những nỗ lực này đã làm cho chính quyền Cộng sản Ba Lan phải chấm dứt thiết quân luật. Yếu tố này là khởi điểm suy yếu của chính quyền Cộng sản Ba Lan.
Nhưng, sở dĩ biến cố Ba Lan diễn biến theo chiều hướng thuận lợi cho Công Đoàn Đoàn Kết, phần lớn nhờ vào thái độ ngấm ngầm khuyến khích bằng cách "làm ngơ" của ông Gorbachev. Trong hội nghị về an ninh của các nước trong khối Quân sự Warsaw vào giữa tháng 6 năm 1988, Gorbachev đã tuyên bố rằng "nhân dân các nước Đông Âu quyết định vận mạng của mình trong việc xậy dựng xã hội chủ nghĩa mà không có sự can thiệp thô bạo nào từ bên ngoài". Tháng 10 năm 1988, trong bài diễn văn đọc tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Gorbachev đã tuyên bố rằng Mạc Tư Khoa sẽ giảm các lực lượng đồn trú tại Đông Âu, tái phối trí như một lực lượng có tính cách phòng thủ và không chủ trương dùng biện pháp quân sự để can thiệp. Đây là dấu hiệu "bật đèn xanh" cho Công Đoàn Đoàn Kết nói riêng và cho các lực lượng dân chủ ở các nước Đông Âu cũ. Nhờ vậy mà các tổ chức quần chúng đã mạnh mẽ tiến hành các nỗ lực tranh đấu, không lo sợ những cuộc đàn áp của Hồng Quân Liên Xô như những năm 1956, 1968 trước đây. Nói tóm lại, sự thắng thế của Công Đoàn Đoàn Kết, phần lớn do ý chí đấu tranh của thành phần công nhân và trí thức, nhưng nếu không có những áp lực quốc tế, kể cả thái độ "làm ngơ" của ông Gorbachev đã không xảy ra một cách nhanh chóng và ngoạn mục như vậy.
Kế đến, sự thắng thế của Công Đoàn Đoàn Kết cho thấy là quần chúng Ba Lan muốn có một sự thay đổi. Tuy nhiên, Công Đoàn chỉ nắm giữ những trách vụ lãnh đạo chính trị ở cấp trung ương, trong khi nhân sự của bộ máy hành chánh từ trung ương đến địa phương đều do đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan nắm giữ, nên mọi chương trình cải cách của Công Đoàn đưa ra, tuy trên lý thuyết rất hay nhưng không được thi hành đúng đắn. Do đó mà lúc đầu Công Đoàn Đoàn Kết được quần chúng ủng hộ bao nhiêu, thì sau một thời gian cầm quyền đã bị sự chống đối. Hơn nữa, quần chúng và công nhân Ba Lan chờ đợi rằng sau cách mạng họ sẽ được hưởng một cuộc sống phồn vinh, tiền lương tăng, nhu yếu phẩm tràn ngập. Ngược lại, chính quyền của Công Đoàn lại áp dụng chính sách thắt lưng buộc bụng, lạm phát gia tăng, thất nghiệp lan tràn, mà các nước Tây phương thì tài trợ nhỏ giọt. Chính trong bối cảnh này, sự căng thẳng bắt đầu xảy ra trong nội bộ Công Đoàn Đoàn Kết. Đó là sự khác biệt giữa hai quan niệm về Công Đoàn. Giới lãnh đạo Công Đoàn, đặc biệt là những người đang phục vụ trong chính quyền và Quốc hội thì chủ trương Công Đoàn là một phong trào xã hội, nhằm thay đổi cơ cấu xã hội. Trong khi đó, những người hoạt động trực tiếp trong Công Đoàn ở các địa phương, vì phải cạnh tranh gay gắt với những nghiệp đoàn do nhà nước Cộng sản thành lập trước đây, khẳng định vai trò của Công Đoàn là để trực tiếp bảo vệ quyền lợi của công nhân mà thôi.
Trong các vụ đình công, như vụ đình công của công nhân đường sắt vào tháng 5 năm 1990, người ta thấy là thành viên của Công Đoàn Đoàn Kết bị đặt vào tình trạng chống lại chính phủ. Cơ sở hậu thuẫn cho Công Đoàn nằm hầu hết trong các nhà máy, xí nghiệp lớn nơi mà công nhân bị ảnh hưởng nặng nề vì sự cắt giảm tài trợ từ chính phủ và vì những luật lệ kiểm soát lương bổng chặt chẽ để chống lạm phát của Bộ trưởng Tài chánh Balcerowicz. Sự xung đột giữa công nhân và chính phủ ngày một bùng nổ lớn, Walesa đã xuất hiện như người trung gian hòa giải giữa chính phủ và công nhân. Những thành công của ông sau những lần can thiệp để chấm dứt các cuộc đình công, vô hình chung đẩy Lech Walesa ở về phía công nhân, tạo những bất đồng trong nội bộ lãnh đạo của Công Đoàn Đoàn Kết, với Thủ tướng Taduesz Mazowieckj.
Sự phân rã Công Đoàn Đoàn Kết bùng nổ khi Lech Walesa cùng với Mazowieckj ra tranh cử Tổng thống vào tháng 12 năm 1990. Thêm nữa sự xuất hiện của một ứng viên thứ ba, ông Stanislaw Tyminskj, một thương gia người Gia Nã Đại gốc Ba Lan vô danh, với sự ủng hộ mạnh mẽ không ngờ của dân chúng, đã khiến cho tư thế của Công Đoàn suy thoái một cách nhanh chóng. Kết quả trong vòng bỏ phiếu đầu, Walesa không đạt được quá bán, trong khi ông Tyminskj đã đẩy Mazowieckj xuống hàng thứ ba. Điều này đã làm ngạc nhiên giới lãnh đạo ở hai cánh của Công Đoàn, và buộc những người ủng hộ Mazowieckj phải dồn phiếu cho Walesa để cứu uy tín của Công Đoàn. Mặc dù Walesa thắng cử Tổng thống với 75% số phiếu bầu, nhưng chỉ có 53,5% dân số đi bầu trong đợt hai, cho thấy là người dân bắt đầu nghi ngờ khả năng lãnh đạo của Công Đoàn Đoàn Kết.
Đây là một thực tế. Lý do là thành phần trí thức tuy là linh hồn của Công Đoàn Đoàn Kết nhưng vừa không có kinh nghiệm cầm quyền, vừa thiếu chuyên viên kỹ thuật ở các cấp nên đã không đủ sức xoay trở tình hình như điều mong đợi của quần chúng và nhất là thành phần công nhân trong Công Đoàn. Hậu quả là trong bốn năm qua, nội các của Công Đoàn Đoàn Kết lúng túng trong các chính sách đưa ra, và trở thành mục tiêu tấn công của thành phần tả khuynh (cựu cộng sản).
Sau cùng, khác với Hung Gia Lợi, thành phần đảng viên cấp tiến trong đảng Cộng sản Ba Lan không đóng góp nhiều vào cuộc đấu tranh của Công Đoàn Đoàn Kết. Hiện nay, mặc dù phe cựu cộng sản Ba Lan trở lại nắm quyền nhưng khung cảnh chính trị đã thay đổi, và khó có thể khống chế đất nước này để trở lại con đường chuyên chính như trước năm 1989. Ngoài ra, sự nắm quyền trở lại của phe cựu cộng sản còn nói lên đặc tính dân chủ trong sinh hoạt chính trị tự do, khi đảng nào, bất luận tự do hay cộng sản, đưa ra được chương trình cải cách ích nước lợi dân, đều được quần chúng ủng hộ. Đây là nguyên tắc cơ bản của thể chế chính trị dân chủ đa đảng. Đây cũng là một bài học cho các dân tộc khác trên đường dân chủ hóa: Vấn đề không chấm dứt ở điểm cuối của chế độ Cộng sản mà là điểm khởi đầu của tiến trình canh tân đất nước thời hậu Cộng sản.
Lý Thái Hùng



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có thể nhận xét không cần là thành viên, và nên góp ý lành mạnh, trung thực. Chọn nhập vai trong danh sách phía dưới khung nhận xét.