Tôi còn nhớ như in ngày 30/4/1975 vào giữa trưa, tin
giải phóng Sài Gòn được lan truyền tới tất cả học sinh lớp 10e chuyên toán cấp
3 tỉnh Hải Hưng cùng những người dân thị xã Hưng Yên. Chúng ta đã nhày cẫng lên
hò reo sung sướng. Hòa bình đã trở lại. Thanh niên sẽ tiếp tục được đi học đại
học và đi làm ở các công trường, nhà máy. Sẽ không còn phải chứng kiến cảnh bom
đạn chết chóc trên quê hương mình. Sẽ không còn phải chứng kiến cảnh những gia
đình đau đớn khóc lóc khi nhận được giấy báo tử người thân ở chiến trường. Một
tương lai huy hoàng đang mở ra trước mắt những người dân nghèo khổ đã phải chịu
20 năm chiến tranh tàn khốc. Tuy vậy, nhiều bạn vẫn chưa biết tường tận vào
thời điểm đó những chuyện gì đã diễn ra trong và ngoài Dinh Độc lập ở cả hai
phía tham chiến?
Nhân dịp kỉ niệm 38 năm ngày giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, BlogE xin tóm lược từ những tác
phẩm được lưu truyền trên mạng giới thiệu với bạn đọc những thông tin tương đối
khách quan, trung thực phản ánh chi tiết tình hình tại thời điểm trọng đại đó để
các bạn có cách nhìn nhận đúng về cuộc chiến tranh kéo dài hơn 20 năm trên đất
nước thân yêu của chúng ta (NCT).
Đi từ bưng biền
Sáng sớm
ngày 30-4-1975, “cánh” của ông Võ Văn Kiệt về tới một khu “đám lá tối trời”
thuộc huyện Bình Chánh. Hai mươi hai ngày trước, ông Lê Đức Thọ vào Trung ương
Cục, sau đó, công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh,
đồng thời trao quyết định cử ông Võ Văn Kiệt làm bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban
Quân quản Sài Gòn-Gia Định, cử ông Lê Đức Anh làm phó bí thư kiêm chủ tịch Ủy
ban Quân quản, và ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh đảm trách lực lượng nổi dậy phối
hợp với quân chủ lực.
Từ R,
căn cứ Trung ương Cục ở huyện Lộc Ninh, ông Kiệt cùng một bộ phận phục vụ gọn,
khoảng hai trung đội, chạy xe Honda 67 bọc qua phía Campuchia, tới cửa biên
giới Mỏ Vẹt, Long An thì bỏ xe lại, đi bộ. Ông Kiệt không lúc nào rời chiếc
radio ba làn sóng hiệu JVC của Nhật. Đài Hà Nội lúc đó gần như liên tục phát
Bão Nổi Lên Rồi, một bài hát mà nhịp điệu thì hối hả, lời lẽ thì thôi thúc: “Từ
Trị Thiên băng qua Tây Nguyên đi tới bưng biền lòng người bừng bừng, cùng tiến
lên thời cơ đã đến rồi”.
Thời cơ
đã đến! Anh em phục vụ quan sát thủ trưởng, trong lòng cảm thấy lần này chắc
ăn. Nhưng thủ trưởng vẫn im lặng. Ngày 27-4, đoàn vượt qua sông Vàm Cỏ Đông,
tới xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, gặp cánh ông Mai Chí Thọ đã về trước ém quân ở
đó. Ông Năm Xuân Mai Chí Thọ, phó bí thư Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định vào thời điểm
đó, là người thông thạo các đầu mối hoạt động nội thành. Hai đoàn bắt đầu nhập
lại làm một. Ít ai nghĩ rồi những người đàn ông mặc đồ bà ba đen, đi dép râu,
mặt mũi khắc khổ, đang xắn quần lội ruộng đó, chỉ vài ngày nữa sẽ nắm quyền
lãnh đạo Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông.
Sáng hôm
sau, khi sương sớm còn phủ trắng, từ nơi tạm dừng nhìn qua phía bên kia cánh
đồng, cánh ông Kiệt nhìn thấy lố nhố xe pháo. Lúc đầu có người tưởng là xe tăng
“địch”, tới khi sương mù bớt đi mới nhận ra: “Cơ man tăng. Tăng mình!”. Ông
Kiệt viết thư, niêm kín, ra lệnh cho thư ký riêng là ông Phạm Văn Hùng (Ba
Hùng), đi kiếm Trung tướng Lê Đức Anh. Tướng Lê Đức Anh tới lúc ấy vẫn là phó
tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, được giao chỉ huy Đoàn 232, một lực lượng tương
đương quân đoàn, tiến vô Sài Gòn ở hướng Tây Nam. Dọc đường Ba Hùng đi, đạn
pháo nằm la liệt trên các bờ ruộng, bờ kênh; dân công rầm rập, bộ đội, xe tăng
lớp lớp. Tướng Lê Đức Anh viết thư trả lời “Anh Sáu Dân” (bí danh của ông
Kiệt), rồi cũng niêm kín, đưa Ba Hùng cầm về. Sau này ông Phạm Văn Hùng mới
biết đó là thông tin về giờ G. Giờ G, ngày N, tức 00 giờ 00 phút ngày
29-4-1975, là giờ quy định cho tất cả năm cánh quân của quân Giải phóng đồng
loạt nổ súng tấn công vào Sài Gòn.
Trưa
29-4, đoàn lội bưng, băng vô vườn thơm Tân Nhựt, Bình Chánh, hạ trại nấu cơm.
Bếp rơm có khói, một chiếc trực thăng trờ tới, lia vài băng đạn vu vơ. Cách đó
không xa lắm là đồn Lý Văn Mạnh, nhưng lính trong đồn giờ đó đã không còn dám
ra ngoài. Đêm ấy, ở lại Tân Nhựt, Ba Hùng mắc võng bên cạnh ông Kiệt, nằm nghe
tiếng pháo, sau biết là “ta pháo kích vô Tân Sơn Nhất”, hai thầy trò trăn trở
không làm sao ngủ được. Sáng 30-4, ông Kiệt, trong khi trao đổi tình hình với
ông Mai Chí Thọ, không quên phân công người theo dõi đài phát thanh và cho phép
anh em nấu ăn. Từ đêm trước, chưa ai có hột cơm nào vô bụng.
Tới
khoảng 9 giờ 30 phút sáng, Đài Sài Gòn im lặng rất lạ, rồi tiếng phát thanh
viên: “Mời đồng bào nghe tuyên bố của Tổng thống”. Mọi người xúm lại quanh
chiếc radio theo dõi phát biểu của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối, chủ
trương của chúng tôi là hoà giải và hoà hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào.
Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương
máu người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sỹ Cộng hoà
hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sỹ Chánh phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây
chờ gặp Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về
lễ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng bào”.
Lời
Tướng Minh vừa dứt, Võ Văn Kiệt ra lệnh: “Giản chính đồ đạc. Đi!”. Đoàn người
lúc đó chẳng kịp ăn uống mà vẫn no tới tận cổ, băng đồng ra lộ, đi về hướng Phú
Lâm, cửa ngõ phía Tây Thành phố. Dọc đường, lính Sài Gòn bắt đầu trút bỏ quân
phục, súng ống, binh khí vất la liệt. Anh em bảo vệ lúc đầu còn khệ nệ xách,
sau thấy lếch thếch quá, lại vứt đi. Có nơi lính Sài Gòn ra hàng cả tiểu đoàn.
Quân Giải phóng chỉ kịp giải thích chính sách rồi ai ở đâu về đó. Sự tan rã của
chế độ Sài Gòn diễn ra gấp gáp khiến ông Kiệt quá sốt ruột. Ông gọi Tư Thạch và
Chín Anh, hai người cận vệ vốn là dân thành phố, đến, ra lệnh: “Hai đồng chí
tìm cách kiếm xe, nhanh chóng đưa Đại quân vô Sài Gòn!”.
Chín Anh
cùng Tư Thạch ra lộ, gặp hai người bận đồ công nhân, chạy xe máy từ phía Sài
Gòn ra. Chín Anh nói: “Tụi tôi là Giải phóng. Nhờ mấy anh quay lại, đưa tụi tôi
vô Sài Gòn”. Hai người này sốt sắng: “Mời mấy anh”. Chín Anh tính đi thẳng vô
Phú Lâm nhưng mới tới xa lộ vành đai thì thấy một chiếc xe tải quân sự hiệu GMC
mới cáu đậu sẵn bên lề đường. Trên xe không biết lực lượng nào đã cắm sẵn một
lá cờ Giải phóng. Chín Anh hỏi: “Mấy anh biết lái xe không?”. Một người nói
liền: “Tôi là tài xế nè”. Chín Anh cho kiểm tra lại xe, thấy xe tốt, kêu hai
“chiến sỹ” vừa được “trưng dụng” đưa xe máy vô nhà dân cạnh đường gửi, rồi lái
chiếc xe quay lại.
“Đại
quân” lúc này vẫn đi bộ theo Lộ 10, gặp xe mừng quá, nhanh chóng leo lên. Chín
Anh ngồi bên cạnh tài xế, ông Kiệt và ông Năm Xuân ngồi kế bên. Bốn, năm anh em
khác bám hai bên thùng xe để bảo vệ. Một tốp thanh niên thấy chiếc GMC cắm cờ
Giải phóng chạy vô phố, cứ thế phóng xe máy theo. Dọc đường, chỗ nào cũng có
lính Việt Nam Cộng hoà cởi áo, cởi giày, chạy. Người dân gom vô, lấy chỗ cho
chiếc xe quân sự Mỹ chở một trong những nhà lãnh đạo “Việt cộng” đầu tiên tiến
vào Sài Gòn.
Ông Võ
Văn Kiệt, ông Mai Chí Thọ và những người trên chiếc xe GMC hôm đó, có người đã
suốt ba mươi năm mắc võng nằm rừng. Giờ ngắm phố xá chạy vùn vụt bên cửa xe,
mắt họ cay xè vì sung sướng. Không ai trong số họ, sau đó, có thể diễn đạt lại
được cảm giác khi ấy của mình, nhưng cuộc đời họ rồi sẽ khó lòng có lại một niềm
vui nào lớn lao hơn niềm vui trong cái ngày 30-4 đó.
Xuân Lộc
Trong
khoảng thời gian cánh ông Võ Văn Kiệt tìm cách di chuyển vô nội thành, chính
những chiếc tăng của Lữ đoàn 203, Quân đoàn II đã viết nốt những dòng cuối cùng
của một trang sử.
Kế hoạch
“bao vây chiến lược Sài Gòn” bắt đầu từ ngày N. Lúc đầu, theo Tướng Trần Văn
Trà, ở phía Tây, Đoàn 232 do Tướng Lê Đức Anh làm tư lệnh cũng gặp không ít khó
khăn; phía Đông, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-4, Quân đoàn IV gồm hai sư đoàn
tấn công thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Cuộc tấn công đã chọc thủng tuyến
phòng ngự thị xã bằng nhiều mũi, nhanh chóng phát triển vào trung tâm. Tuy
nhiên, sau khi cắm cờ trên dinh tỉnh trưởng và làm chủ một loạt các căn cứ
khác, ngày 10-4, một lữ đoàn dù của Việt Nam Cộng hòa được trực thăng vận đưa
tới thị xã để chi viện gấp và “giữ tinh thần cho Sư đoàn 18”.
Cho đến
ngày 15-4, gần hết tăng thiết giáp của Quân đoàn III và một lực lượng tương
đương một sư đoàn thuộc quân trù bị dù và thủy quân lục chiến của Sài Gòn đã
được điều về. Trận Xuân Lộc được được coi là khốc liệt nhất trong toàn chiến
dịch. Quân đội Sài Gòn đã ném xuống đây hai loại bom có khả năng sát thương
hàng loạt: Daisy Cutler và CBU7. “Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, mọi sức mạnh có
thể đều được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sử dụng.
Hãng UPI
(Mỹ), ngày 12-4, cho rằng, Xuân Lộc được chọn làm nơi thí nghiệm khả năng chiến
đấu của quân Nam Việt Nam. Khi quân Giải phóng gặp khó khăn, thương vong rất
lớn ở Xuân Lộc, báo chí Sài Gòn đánh giá khả năng chiến đấu của Quân lực Việt
Nam Cộng hòa đã hồi phục, và còn đủ mạnh để giữ vững chế độ.
Theo
Tướng Trần Văn Trà, tình hình đó khiến cho “các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến
Dũng và cả anh Lê ĐứcThọ rất lo lắng”. Tướng Trà viết: “Trận đánh quá ác liệt,
e rằng các đơn vị ta bị thương vong nặng trong thời điểm này không lợi. Vì vậy
các anh gợi ý có thể cho anh em rút ra khỏi thị xã… tôi đề nghị cho tôi đến tận
nơi, nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh. Các
anh đều đồng ý”8. Chiều 11-4, Tướng Trà đến chỉ huy sở của Quân đoàn IV đóng
trên bờ sông La Ngà. Sau khi nghe ý kiến của các tướng chỉ huy ở đây, Tướng Trà
kết luận: “Xuân Lộc là điểm then chốt, hết sức quan trọng trong tuyến phòng
ngự, nên địch đã tập trung nhiều lực lượng cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã
chiếm ưu thế so với ta. Ta cũng không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp
tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi… Nếu ta chiếm ngã ba Dầu Giây và giữ vững
luôn… thì Xuân Lộc tự dưng mất hết tác dụng vì bị đặt ra ngoài tuyến phòng thủ.
Biên Hòa thì sẽ lập tức bị uy hiếp”. Tất cả nhất trí với phương án tác chiến
này.
Để chuẩn
bị cho chiến dịch được đặt tên là Hồ Chí Minh, Quân đoàn I được điều từ miền
Bắc vào; Quân đoàn II thì vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển. Tướng
Trà viết: “Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, có xe tăng đến nơi nhưng
xăng dầu hết, đạn pháo chỉ còn một hai viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh.Cán bộ
tham mưu và hậu cần vùi đầu với công việc, mỗi ngày làm việc gấp mấy lần ngày
thường. Nhưng tinh thần phơi phới”.
Ngày
18-4, ông Lê Đức Thọ, đại diện Bộ Chính trị đã cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch duyệt
lại kế hoạch lần cuối. Trước đó, trong Điện số 07, ông Lê Duẩn viết: “Tôi đã
bàn với anh Văn (Võ Nguyên Giáp), nhận thấy cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến
khi phần lớn lực lượng của Quân đoàn III và Quân đoàn I (cả bộ binh và binh khí
kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu cuộc tấn công lớn, chưa nên làm bây giờ”. Rạng
sáng ngày 21-4, các tuyến phòng thủ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn tại Xuân
Lộc sụp đổ. Bốn tiểu đoàn còn sống sót của Sư đoàn 18 quân đội Việt Nam Cộng
hòa với Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đã phải thoát khỏi thành phố đổ nát ấy bằng
máy bay lên thẳng.
Đầu
tháng 4-1975, trong một cuộc họp báo tại Nhà Trắng, khi các phóng viên đặt vấn
đề loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu mở đường cho một chính phủ “có thể nóichuyện với Hà
Nội” lên cầm quyền, Tổng thống Mỹ Gerald Ford nói: “Tôi không tin là tôi có
quyền ra lệnh cho một nguyên thủ quốc gia được dân bầu rời nhiệm sở”. Tuy
nhiên, hơn hai tuần sau, vào ngày 20-4-1975, cả Tổng thống Gerald Ford và Ngoại
trưởng Henry Kissinger đều đồng ý để đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin nói
bóng gió với ông Thiệu về việc nên “cân nhắc từ chức”.
Nhà
Trắng hy vọng với việc từ chức của ông Thiệu, Liên Xô có thể giúp nói với miền
Bắc đàm phán để có “thêm vài ngày sơ tán những người Việt Nam có liên hệ với
Mỹ”. “Với một điệu bộ khá lạnh lùng, Thiệu trả lời rằng ông sẽ làm tất cả những
gì tốt đẹp cho đất nước của ông”. Tuy nhiên, vào buổi trưa hôm sau, ngày
21-4-1975, khi không còn Xuân Lộc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu Thủ tướng
Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương đến văn phòng, thông báo là
ông từ chức. Chiều tối hôm đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình công
khai quyết định của mình và giao quyền cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương.
Lúc 3
giờ 30 phút chiều ngày 22-4-1975, từ Hà Nội, một bức điện ký tên Bí thư Thứ
nhất Lê Duẩn được chuyển vào chiến trường: “Các anh ra chỉ thị ngay cho các
hướng hành động kịp thời, chú trọng kết hợp tấn công quân sự và nổi dậy của
quần chúng, sự hợp đồng giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ
thực hiện trong quá trình hành động. Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định
giành toàn thắng”.
Ngày
26-4-75, Tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh Chiến dịch, và Tướng Trần Văn Trà di
chuyển xuống Sở Chỉ huy tiền phương; hai ngày sau, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng tới.
Đến lúc ấy thì tình hình đã ngã ngũ. Sài Gòn hoàn toàn bị vây hãm. Phía Tây,Sư
đoàn 5 của Đoàn 232 bắt đầu tấn công vào Sư đoàn 22, từ Tân An lên đến Cầu Voi;
Trung đoàn 16 đánh chiếm cầu Bình Điền và cầu An Lạc; hai Trung đoàn đặc công
115 và 117 chiếm Phú Lâm. Xa hơn về phía tây, Lộ 4 bị cắt ở Cai Lậy.
Cũng từ
ngày 26-4, Sư đoàn 8 Quân khu VIII đã cắt hoàn toàn Lộ 4 đoạn từ ngã ba Trung
Lương lên giáp Tân An. Lực lượng Quân khu IX cũng khống chế được đoạn Cái
Vồn-Ba Càng. Con đường chiến lược độc nhất xuyên suốt đồng bằng Cửu Long bị băm
nát. Về phía Đông, Quân đoàn II ngày 26-4 cũng nổ súng tấn công căn cứ huấn
luyện thiết giáp Nước Trong, đánh chi khu Long Thành; ngày 27-4 chiếm thị xã Bà
Rịa. Đường 15 bị cắt đứt hoàn toàn. Cùng đêm 26-4, Trung đoàn đặc công 116 bắt
đầu đánh cầu xa lộ Đồng Nai; Trung đoàn 10 đặc công đánh từ Phước Khánh đến ngã
ba Đồng Tranh, khóa chặt đường sông. Sân bay Biên Hòa bị bắn phá bằng pháo 130
ly. Ngày 23-4, sân bay Biên Hòa bị đóng cửa cùng lúc với tòa lãnh sự Mỹ ở thị
xã Biên Hòa. Sài Gòn chỉ còn kiểm soát hai sân bay cuối cùng: Lộ Tẻ (Cần Thơ)
và Tân Sơn Nhất”.
Tướng
Minh lớn (Dương Văn Minh)
Đầu
tháng 4-1975, có những thông tin cho thấy người Mỹ quan tâm tới “phương án Big
Minh”. Tài liệu của CIA nói là ngày 2-4-1975, trùm CIA tại Sài Gòn Thomas
Polgar gửi một bức điện về Tổng Hành dinh đề xuất lật Thiệu để đưa Dương Văn
Minh lên thay, hy vọng thành lập được một chính phủ liên hiệp “có khả năng làm
chậm lại cuộc xâm lược của Bắc Việt”. Theo Polgar, trưởng đoàn Hungary trong Ủy
ban Kiểm soát Bốn bên nói: Hà Nội cho biết, nếu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị
loại thì Bắc Việt sẵn sàng thương thuyết. Tại Dinh Hoa Lan (vốn là một dinh thự
của Đức Từ Cung ở số 3 Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần, được Tổng thống Ngô
Đình Diệm ban tặng cho Tướng Minh), nhóm ông Minh bắt đầu thảo luận về khả năng
chấp chính.
Đại
tướng Dương Văn Minh sinh năm 1916 tại Mỹ Tho. Cha ông, Đốc phủ sứ Dương Văn
Huề, có bảy người con. Em kế ông Minh, Dương Thanh Nhựt, “tập kết” ra Bắc năm
1954. Ông Minh, vốn là một sỹ quan trong quân đội Pháp, sau Cách mạng tháng Tám
đã từng tham gia kháng Pháp. Từ năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ, khi ấy được lãnh đạo
bởi ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh, đã yêu cầu Cục trưởng Cục Địch vận Võ Văn
Thời giao nhiệm vụ cho Dương Thanh Nhựt về Nam để tiếp cận với Dương Văn Minh.
Tháng 3-1961, Dương Thanh Nhựt, bấy giờ mang bí danh Mười Ty, về đến miền Nam,
và tới tháng 8-1962 thì móc nối được với cậu ruột và vợ là Sử Thị Hương.
Ngày
1-11-1963, Dương Văn Minh, người hùng của Ngô Đình Diệm, đã nhân danh chủ tịch
Hội đồng Quân nhân Cách mạng phát lệnh đảo chính tổng thống.
Năm
1967, khi Dương Văn Minh đi Pháp, ông Mười Cúc cũng đã cử Mười Ty qua Paris;
trước đó, Mười Ty cũng được đưa qua Hồng Kông tìm Dương Văn Minh, nhưng cả hai
lần đều không gặp.
Giữa
tháng 4-1975, tại một nhà hàng đặc sản của Tướng Mai Hữu Xuân nằm trong rừng
cao su trên xa lộ Đại Hàn có tên là Đường Sơn Quán, ông Dương VănMinh tổ chức
họp mặt với đông đủ báo giới trong và ngoài nước, tuyên bố “sẵn sàng thay Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu như một giải pháp tình huống để tìm cơ hội hòa bình cho
miền Nam”. Sau cuộc họp báo, ngày 17-4, Đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon đã đến
Dinh Hoa Lan bằng xe có cắm quốc kỳ Pháp. Hành động của ông Đại sứ được báo chí
Sài Gòn bình luận là cố tình vi phạm nguyên tắc ngoại giao nhằm công khai lập
trường của Pháp đối với tình hình chính trị miền Nam.
Sau khi
từ chức, ngày 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và gia đình vẫn sống trong
Dinh Độc Lập. Phe đối lập và Đài Hà Nội liền gọi Sài Gòn là “Chính phủ Thiệu mà
không có Thiệu”. Cả Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương và Tướng Big Minh đều
đánh tiếng để Đại sứ Martin thu xếp đưa ông Thiệu đi. Về mặt công khai, chuyến
đi của ông Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Trần Thiện Khiêm là “công cán”.
Buổi
chiều ngày 25-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với sự tháp tùng của một sỹ
quan tùy viên, Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu, đi một vòng “hậu dinh”, nơi ở của
gia đình ông, và chỉ ra yêu cầu chuẩn bị đồ đạc cá nhân để đưa về tư gia. Sau
đó, ông đến văn phòng tổng thống. Sỹ quan tùy viên của ông Hương nói “Tổng
thống đang họp”. Ông Thiệu đưa cho viên sỹ quan một phong thư, dặn khi nào Tổng
thống họp xong thì trình.
Theo ông
Nguyễn Đức Từ, một trợ tá và là em rể họ của ông Thiệu, bức thư viết: “Thưa cụ,
theo chỉ thị của cụ, tôi và Đại tướng Trần Thiện Khiêm đi giải độc tại các quốc
gia bạn, cùng với đoàn tùy tùng gồm: Đại tá Đức, Đại tá Thiết, Đại tá Diên,
Trung tá Chiêu…”. Sau đó, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng đến nhà Tướng
Khiêm ở Bộ Tổng Tham mưu; tại đây, một tiệc nhẹ đã dọn sẵn. Ăn xong, Tướng
Nguyễn Văn Thiệu cùng Trung tá Chiêu đi bộ về nhà, cũng trong khuôn viên Bộ
Tổng. Khi họ quay lại thì bàn ăn nhà Tướng Khiêm đã được dùng làm bàn thủ tục
cho chuyến bay.
Khoảng 9
giờ tối, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng được đưa ra phi trường bằng ba
chiếc xe do hai sỹ quan CIA lái. Đoàn xe ra khỏi cổng Bộ Tổng Tham mưu, thay vì
rẽ phải vào phi trường, đã rẽ trái đi ngược ra Sài Gòn, vào Chợ Lớn, qua trường
đua Phú Thọ, Lăng Cha Cả… qua cổng Phi Long, Bộ Tư lệnh Không quân, theo đường
ngược chiều chạy vào sân bay. Tại “cổng nhà kính” của Không quân, đèn tắt,
không có nhân viên Việt Nam nào làm việc, chỉ có thủy quân lục chiến và quân
cảnh Mỹ. Sau khi nhận tín hiệu bằng đèn pin, đoàn xe đi qua, chạy thẳng tới cầu
thang một chiếc máy bay C-118. Ở đó, Đại sứ Mỹ Martin đã đứng chờ đưa tiễn. Đêm
ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay đi Đài Loan.
Những
ngày ấy, trong Dinh Hoa Lan, theo mô tả của một người kề vai sát cánh với ông
Dương Văn Minh, Dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, là “những ngày dài như vô tận”.
Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương, người trước đó được Tướng Nguyễn Văn Thiệu
phong hàm “hạ sỹ danh dự” đã “quyết tử thủ dù Sài Gòn có phải tắm máu”. Tướng
Big Minh nói với Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận: “Toa (anh) làm thế nào đó thì làm, nếu
ông Hương cứ kéo dài hoài thì moa (tôi) không nhận đâu!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận
hiểu đại từ tiếng Pháp “toa” mà ông Tướng nói là nhằm chỉ ông Nhuận và nhóm dân
biểu đối lập đang “quậy” ở Quốc hội để ông Hương từ chức. Nghe ông Tướng nói
“moa không nhận”, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận nghĩ tới cái ghế tổng thống mà tới giờ
đó “ai cũng thấy là không còn cái chân nào”, ông Nhuận xót xa nghĩ: “Ông Tướng
đã từng muốn xua đi chén đắng để cuối cùng chấp nhận uống chén đắng cho tới cặn
sao”.
Sau đó,
trong một cuộc họp ở Dinh Hoa Lan, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận khuyên Tướng Big Minh
“thôi”. Ông Dương Văn Minh ngạc nhiên: “Giờ này mà toa còn nói đâm bang!”. Ông
Hồ Ngọc Nhuận bỏ phòng họp lên sân thượng. Dân biểu Dương Văn Ba sau đó theo
lên nói: “Anh đừng buồn”. Ông Hồ Ngọc Nhuận nói: “Nếu ông Tướng nhận, người ta
sẽ làm nhục, giờ này thì chỉ có đầu hàng thôi. Cho dù lâu nay hoạt động của
chúng ta có gián tiếp tiếp tay cho họ (phía Cách mạng), nhưng tôi không muốn
đứng trong hàng ngũ những người sẽ bị họ bắt quỳ gối, đầu hàng”. Kể từ đó, ông
Nhuận không tham gia các cuộc họp bàn thành lập “nội các” nữa, cho dù nhiều
người muốn ông Nhuận, người đã từng là quận trưởng Quận 8 và đang là một dân
biểu đối lập hàng đầu, ra tay “giúp ông Tướng” mà nhận lãnh vai trò “đô
trưởng”.
Ngày
27-4-1975, Quốc hội Sài Gòn nhóm họp. Chỉ còn 136 nghị sỹ trên tổng số 219 của
lưỡng viện có mặt, phần đông trong số họ đã di tản ra nước ngoài. Bộ trưởng
Quốc phòng Trần Văn Đôn và Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên đã đến để thuyết
trình tình hình chiến sự. Mãi tới 8 giờ 54 phút tối hôm ấy, các nghị sỹ mới
biểu quyết thông qua nghị quyết: “Yêu cầu ông Trần Văn Hương trao quyền cho
Tướng Dương Văn Minh để mưu cầu hòa bình cho dân tộc”.
Ngày
28-4, Tướng Dương Văn Minh chính thức công bố thành phần chính phủ: Luật sư
Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng viện, giữ chức phó tổng thống; luật sư Vũ
Văn Mẫu giữ chức thủ tướng. Nội các còn có thêm một thành viên chính thức nữa
là Tổng trưởng Thông tin Lý Quý Chung.
Quyết
định đầu tiên của Đại tướng Dương Văn Minh là ký Văn thư số 33/TT/VT “mật – hỏa
tốc” với nội dung: “Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Kính gửi ông Đại sứ Hoa kỳ
tại Việt Nam. Thưa ông Đại sứ. Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra
chỉ thị cho các nhân viên của cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi Việt Nam
trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề hòa bình
Việt Nam sớm được giải quyết. Trân trọng kính chào ông Đại sứ. Sài Gòn ngày
28-4-1975. Ký tên: Đại tướng Dương Văn Minh”.
Trại
Davis
Sáng
29-4-1975, một người bạn cùng sinh hoạt tôn giáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn
Huyền là nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu chủ động gặp ông Huyền hỏi: “Chính
quyền ông Dương Văn Minh thành lập được nói là để hòa giải dân tộc, vậy các anh
đã tiếp xúc gì với phía bên kia chưa?”. Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền nói
chưa, và đề nghị ông Nguyễn Đình Đầu vào trại Davis gặp đại diện Cách mạng có
mặt ở đó với tư cách là thành viên thuộc Ủy Ban Liên lạc Bốn bên theo Hiệp định
Paris.
Từ năm
1939, ông Nguyễn Đình Đầu hoạt động trong phong trào Thanh Lao Công, một tổ
chức của lực lượng thanh niên Công giáo. Tại đó, ông gặp ông Nguyễn Mạnh Hà,
nguyên giám đốc Kinh tế Bắc kỳ trong chính phủ thân Nhật của ông Phan Kế Toại,
người được ông Võ Nguyên Giáp tiến cử làm bộ trưởng Kinh tế sau Cách Mạng tháng
Tám. Ông Hà chọn ông Nguyễn Đình Đầu làm bí thư Bộ, một trong bốn viên chức
chính trị của Bộ.
Phái
đoàn vào trại Davis hôm 29-4-1975 gồm ông Nguyễn Văn Diệp, ông Nguyễn Đình Đầu,
Kỹ sư Tô Văn Cang và ông Nguyễn Văn Hạnh. Dọc đường đi họ gặp rất nhiều trở
ngại do binh lính cản đường. Ở trại Davis, một cán bộ Cách mạng tiếp họ nhưng
nói là Phái đoàn Chính phủ Cách mạng không có nhiệm vụ tiếp xúc. Nhưng khi trao
đổi không chính thức, vị cán bộ này gợi ý: chỉ cần các ông chấp nhận “Tuyên bố
ngày 26-4-1975 của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”.
Trở về
từ trại Davis, ông Diệp báo cáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền. Sau khi có
tranh luận trong nội bộ Chính phủ, ông Nguyễn Văn Diệp và ông Nguyễn Đình Đầu
về nhà ông Diệp cùng soạn thảo bản tuyên bố “Chấp nhận Điều kiện Ngừng bắn của
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam”. Dự thảo viết xong lúc 16 giờ và ngay sau
đó được “Phó Tổng thống đặc trách đàm phán” Nguyễn Văn Huyền trình lên Tổng
thống. Tướng Dương Văn Minh chấp thuận. Ông Nguyễn Văn Huyền đã công bố bản này
trên Đài Phát thanh Sài Gòn vào lúc 17 giờ ngày 29-4-1975. Cũng trong ngày
29-4, sau bữa cơm trưa, Luật sư Trần Ngọc Liễng, một người hoạt động trong lực
lượng thứ ba, tới Dinh Hoa Lan gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Ông Liễng, một
người của phía Cách mạng, thông báo với ông Minh về “bốn giàn pháo của quân
Giải phóng đặt quanh Sài Gòn” và nói: “Nếu anh chấp nhận không chống cự thì tôi
lên ngay trại Davis báo ý này với phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam và yêu cầu họ không pháo kích vào Sài Gòn, tránh cho nhân
dân khỏi bị chết chóc, Sài Gòn không đổ nát”. Ông Minh suy nghĩ rồi nói: “Liễng
đi đi”.
Khoảng
15 giờ, “sứ bộ” thứ hai gồm Luật sư Trần Ngọc Liễng, Linh mục Chân Tín, Giáo sư
Châu Tâm Luân vào trại Davis. Trưởng Phái đoàn Chính phủ Cách mạng Võ Đông
Giang ra tiếp, nhận thông điệp “Sài Gòn không chống cự” từ ông Liễng. Do tình
hình chiến sự, ông Võ Đông Giang đã giữ “sứ bộ” ở lại trại Davis cho tới khi
quân Giải phóng vào đến Sài Gòn. Trước đó, một người trong nhóm của Luật sư
Trần Ngọc Liễng đã được tiến cử để Tổng thống Dương Văn Minh bổ nhiệm vào chức
giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành: ông Triệu Quốc Mạnh, chánh Biện lý Gia Định,
một “đảng viên cộng sản nằm vùng”. Trong ngày 29-4, Triệu Quốc Mạnh đã kịp thi
hành triệt để lệnh của tổng thống: thả hết tù chính trị.
Nguyễn
Hữu Hạnh
Trong
khi ấy, từ Cần Thơ, Chuẩn tướng hồi hưu Nguyễn Hữu Hạnh lặng lẽ theo dõi tình
hình, nhận thấy đây là cơ hội cuối cùng để mối quan hệ âm thầm với Cách mạng
gần chục năm qua mang về kết quả. Ông Hạnh với ông Minh đã có hơn ba mươi năm
biết nhau trên nghĩa thầy trò. Ngày đăng lính, ông Nguyễn Hữu Hạnh được người
Pháp đưa vào một đơn vị nơi ông Dương Văn Minh là thiếu úy đại đội phó. Sau ba
tháng huấn luyện với sự dìu dắt trực tiếp của ông Minh, ông Hạnh được phong
trung sỹ. Trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, truy quét quân Bình Xuyên năm 1956,
ông Minh bổ nhiệm ông Hạnh giữ chức tham mưu trưởng chiến dịch.
Ông Hạnh
có một người bác, nhưng nhỏ tuổi hơn ông, ông Nguyễn Tấn Thành – thường gọi là
Tám Vô Tư. Ông Nguyễn Tấn Thành “trụ” lại ở miền Nam, trong khi con trai của
ông, Nguyễn Tấn Phát, được đưa ra miền Bắc. Mấy lần ông Tám Vô Tư bị chính
quyền Sài Gòn bắt, ông Nguyễn Hữu Hạnh đều khéo léo sử dụng quyền lực và các
mối quan hệ để cứu ra. Khi ba của ông Nguyễn Hữu Hạnh mất, ông Hạnh muốn đưa về
an táng ở quê lúc bấy giờ nằm trong vùng kiểm soát của quân Giải phóng, ông Tám
Vô Tư lại đứng ra “dàn xếp”. “Ổng khéo lắm”, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhớ
lại. Dần dần, ông Nguyễn Hữu Hạnh nhận ra bác mình, ông Tám Vô Tư, đang thực
hiện một kế hoạch “binh vận” do ông Bảy Lương, tức Lê Quốc Lương, phụ trách.
Tướng
Nguyễn Hữu Hạnh tỏ ra hợp tác; tuy nhiên, ông khôn khéo từ chối lời đề nghị “ra
căn cứ dựng cờ sỹ quan yêu nước trong Mặt trận Giải phóng”, từ chối tham gia
lực lượng thứ ba, và từ chối tiếp xúc với “anh em Cách mạng”. Tướng Nguyễn Hữu
Hạnh nói với ông Tám Vô Tư: “Ông bị bắt, tôi cứu, tôi mà bị bắt không ai cứu
được”. Giữa năm 1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho Nguyễn Hữu Hạnh về hưu;
ông về Cần Thơ, gặp gỡ binh vận nhiều hơn nhưng vẫn không chịu “đi hẳn theo
Cách mạng”. Tuy nhiên, khi thế cờ đã gần như ngã ngũ, đặc biệt, khi thấy ông
thầy Dương Văn Minh nhảy ra chấp chính, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyết định
nắm lấy cơ hội cuối cùng.
Ông kể:
“Sáng 29-04-1975 tôi đến gặp ông Minh tại nhà riêng, văn phòng khi ấy vẫn còn ở
nhà ông, số 3 Trần Quý Cáp. Trung tướng Mai Hữu Xuân, phụ trách sự vụ nói với
tôi: Đại tướng bận họp, Chuẩn tướng chờ một chút. Ông Dương Văn Minh là một con
người kín đáo, trầm lặng, nhưng lúc này trên gương mặt ông cũng lộ rõ vẻ suy
nghĩ lo âu. Một sĩ quan tùy viên vào trình có Đại sứ pháp đến. Tôi sang phòng
bên để ông Minh và ông Huyền tiếp Mérillon nhưng vẫn nghe được tiếng của Đại sứ
Mérillon thông báo là Tổng trưởng Ngoại giao Pháp đã liên lạc với Hà Nội về vấn
đề thương thuyết, nhưng Hà Nội trả lời ‘Rất tiếc là đã quá trễ’.
Hai ông
Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu tiếp tục trao đổi sau khi Mérillon ra về. Họ quyết
định tuyên bố thả hết tù chính trị. Tôi hỏi ông Dương Văn Minh: ‘Thưa Đại
tướng, còn về tình hình quân sự ra sao?’. Ông Minh nói: ‘Toa là quân nhân không
đi xem còn hỏi gì?’ Là tổng tư lệnh quân đội, nhưng lúc bấy giờ ông Minh cũng
không nắm nổi tình hình mà còn phó thác cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên phụ
trách mọi việc ở Bộ Tổng tham mưu. Tôi thấy lúc này cần phải nắm lấy việc chỉ
huy quân đội và tôi đoán thế nào ông Minh cũng trao việc này cho tôi. Tôi nói:
‘Tôi về hưu rồi đi coi sao được. Đại tướng có cho quyền thì tôi mới đi’. Ngay
lúc đó ông Minh phái tôi đến Bộ Tổng Tham mưu xem xét tình hình quân sự”.
Ông
Nguyễn Hữu Hạnh chưa kịp về tới nhiệm sở thì Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên
và Tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô, đã bỏ ra nước ngoài. Trung
tướng Vĩnh Lộc được cử giữ chức tổng tham mưu trưởng, Thiếu tướng Lâm Văn Phát
giữ chức tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tướng Vĩnh Lộc trao cho ông Nguyễn Hữu Hạnh
bộ đồ quân phục của một đại úy và cho ông cặp quân hàm chuẩn tướng. Chân ông
Hạnh đi giày quân sự nhưng đầu thì không mũ, Tướng Vĩnh Lộc nhìn, lắc đầu, chửi
thề rồi nói: “Bây giờ chúng nó chạy như chuột”.
Tình
hình ở Bộ Tham mưu rối ren, bế tắc. Theo Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, khi ông Minh
gọi Tướng Vĩnh Lộc tới nhà, cử ông làm tổng tham mưu trưởng, thì Tướng Vĩnh Lộc
từ chối: “Đại tướng giao cho Ngô Quang Trưởng đi, sớm nay tôi còn thấy nó ở
Tổng Tham mưu”. Quân đoàn I của Tướng Trưởng vừa bị đánh tan tác ở Huế và Đà
Nẵng, Tướng Trưởng vừa mới chạy tới Sài Gòn. Dương Văn Minh không đồng ý.
Nhân khi
ông Minh rời phòng khách, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cố thuyết phục Vĩnh Lộc chấp
nhận. Tướng Vĩnh Lộc lên nắm quyền nhưng vẫn sắp xếp cho gia đình chuẩn bị “di
tản”. Ông Hạnh nhớ lại: “Cái chức ấy bao năm qua nhiều kẻ đã phải giành giật
nhau, vậy mà bấy giờ không ai muốn nhận nữa”.
Sài Gòn
trong vòng vây
Theo
Henry A. Kissinger, cuối tháng 4-1975, người Mỹ đã hoàn thành phần lớn việc di
tản, kể cả hơn một trăm nghìn người Việt Nam có thể bị nguy hiểm do đã cộng tác
với người Mỹ. Ngày 22-4-1975, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã “chấp thuận yêu cầu” của
Tổng thống Gerald Ford, đồng ý gỡ bỏ những điều kiện hạn chế (extend parole)
cho “khoảng 130,000 dân tị nạn đến từ Đông dương, trong đó có 50,000 người
thuộc diện nguy cơ cao”. Đây là lần thứ hai Bộ Tư pháp Hoa Kỳ “chấp thuận một
trường hợp ngoại lệ” (lần đầu, năm 1960, được dành cho “dân tị nạn Cuba”).
Từ ngày
21-4, các máy bay, C-141 vào ban ngày và C-130 vào ban đêm, liên tục cất cánh
từ Sài Gòn, đưa “khoảng 50.000 người Việt nam” ra đi. Hơn 80.000 người Việt Nam
khác “với sự trợ giúp của Mỹ chạy thoát bằng các phương tiện khác”.
Tuy
nhiên, vào 4 giờ sáng ngày 29-4, khi quân Giải phóng tấn công bằng tên lửa vào
sân bay Tân Sơn Nhất, 8.000 người Việt nam và 400 người Mỹ vẫn còn đang tập
trung ở đó để chờ lên máy bay. Cuộc sơ tán đã phải tạm ngưng vì đám đông hoảng
loạn. Trong ngày hôm ấy, Sài Gòn chứng kiến những đợt rút chạy cuối cùng của
phái bộ Mỹ, trực thăng lên xuống ầm ĩ trên vùng trời Tân Sơn Nhất, binh sĩ dưới
đất bắn lên, tức giận.
Ba giờ
chiều ngày 29-04-1975, tình hình quân sự được báo cáo về Bộ tổng tham mưu Sài
Gòn: Hướng Củ Chi, Sư đoàn 25 của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá thất thủ vào chiều
28-04-1975 sau khi căn cứ Đồng Dù bị mất. Ở Biên Hòa, Trung tướng Toàn cho
biết: trong ngày 28-04-1975, lúc 18 giờ 10 phút, Việt Cộng dùng xe tăng đánh
chiếm chi khu Long Thành; 18 giờ 50 phút mất tỉnh lị Bà Rịa; 19 giờ 30 phút
Biên Hoà bị bao vây ba mặt.
Tối
29-04-1975, Thiếu tướng Lê Minh Đảo nói với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh ông đang bị
bọc hậu và xin rút về bên này sông Đồng Nai để cố thủ. Theo ông Hạnh thì giọng
Tướng Lê Minh Đảo lạc đi. Cách đó mới hơn một tuần, Tướng Đảo tuyên bố “Cố thủ
Xuân Lộc”, nhưng rồi Sư đoàn 18 đã phải rút chạy. Trong khi đó, ở Sư 22 đóng
tại Tân An, Chuẩn tướng Phan Đình Niệm đã bỏ trốn. Hướng Thủ Dầu Một do Sư 5
trấn giữ đã bị chọc thủng đêm 29-04-1975, liên lạc bị cắt đứt.
Khi quân
Giải phóng tràn đến Hố Nai, Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp lập tuyến phòng
thủ bên này sông Đồng Nai. Đêm 29-04-1975, nhiều đoàn xe của quân Giải phóng từ
phía Hóc Môn đã tiến về Sài Gòn. Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cho biết đã lập xong
kế hoạch phản công. Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, muốn kéo dài sự phòng thủ
thì cần chỉ thị sắp xếp quân lại. Tuy nhiên, ông đã không bàn với Tướng Vĩnh
Lộc việc này. Theo chỉ thị của Tổng thống Dương Văn Minh, “không được di chuyển
quân để chờ ông thương thuyết”.
Trước
khi về gặp tổng thống, ông Nguyễn Hữu Hạnh trình bày tình hình quân sự với
Trung tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Nguyễn Hữu Có: “Phía Tân Sơn Nhất quân của
Biệt khu Thủ đô đang chạm súng với Việt Cộng. Có thể họ sẽ giữ nổi nhưng phải
chịu thiệt hại nhiều về người và vật chất. Tuy nhiên phía Biên Hòa và Thủ Dầu
Một, Quân đoàn III không còn; chỉ huy các đơn vị của họ, Trung tướng Toàn đã bỏ
chạy; Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp kẹt ở tuyến sông Đồng Nai. Hướng Thủ
Dầu Một bị bỏ ngỏ. Một đoàn chiến xa của Việt Cộng đang tiến về Sài Gòn. Mặt
trận phía này chúng ta không có quân xung kích mà chỉ có lực lượng phòng thủ.
Tôi e trong thời gian ngắn nữa chúng ta sẽ không thể gỡ nổi”. Theo ông Nguyễn
Hữu Hạnh: “Nghe xong, Tướng Vĩnh Lộc biến đổi sắc mặt, vội cầm lấy điện thoại
báo cáo với ông Dương Văn Minh. Sau đó Vĩnh Lộc bắt tay tôi, đó là cái bắt tay
cuối cùng”. Tám giờ sáng 30-04-1975, viên tướng dòng dõi hoàng tộc này đã cùng
gia đình “di tản” bằng đường thủy.
Ông
Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại: “Tôi và Tướng Nguyễn Hữu Có chạy đi tìm xe, tài xế đã
bỏ đi mất. Tướng Có phải gọi điện thoại về nhà đưa chiếc xe riêng đón chúng tôi
đến nhà ông Dương Văn Minh lúc 6 giờ sáng. Gặp ông Minh, Tướng Có trình bày lại
toàn bộ tình hình quân sự như tôi đã nói. Ông Minh trầm ngâm. Tôi nói
thêm:‘Tình hình rất nguy ngập, xin Đại tướng quyết định gấp’. Ông Minh quay lại
hỏi:‘Bây giờ toa muốn gì?’ Tôi nói: ‘Thưa Đại tướng quyền chính trị là ở Đại
tướng, riêng về quân sự thì Đại tướng phải giải quyết, tình hình quá nguy ngập
không cho phép chúng ta chần chừ nữa’. Ông Minh suy nghĩ trầm ngâm một hồi rồi
nói: ‘Thôi để tôi đi bàn với ông Huyền và ông Mẫu, các toa ngồi đây đợi’. Tôi
đề nghị được đi theo, ông Minh đồng ý”.
Ông Minh
và ông Hạnh tới Phủ Thủ tướng, số 7 đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn).
Trên đường đi họ chứng kiến sự hốt hoảng của dân chúng, tại tòa đại sứ Mỹ có
nhiều kẻ đang hôi của. Đại sứ Mỹ Martin rời khỏi Sài Gòn vào lúc 4 giờ 58 phút
sáng 30-4-1975. Tuy nhiên, chuyến trực thăng cuối cùng rời khỏi tòa Đại sứ Mỹ,
theo Ngoại trưởng Kissinger, là vào lúc 8 giờ 53 phút sáng 30-4, để sơ tán 129
lính thủy đánh bộ bảo vệ cuộc di tản ở tòa Đại sứ.
Ông
Dương Văn Minh yêu cầu cho xe đón ông Huyền và ông Mẫu. Xe riêng của tổng thống
đã đón ông Nguyễn Đình Đầu trước khi qua nhà ông Nguyễn Văn Huyền. Ông Đầu
thuật lại, trên đường đi đến số 7 Thống Nhất, ông Huyền có nói với ông Đầu một
câu bằng tiếng Pháp “Il faut se rendre”(phải đầu hàng).
Tình
hình chiến sự mỗi phút càng nguy ngập. Lúc 8 giờ sáng 30-4, ba ông Dương Văn
Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu không còn lựa chọn nào hơn là đơn phương
tuyên bố “bàn giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam”. Ông Vũ Văn Mẫu soạn lời tuyên bố mất khoảng một tiếng đồng hồ; 9
giờ ông Minh đọc vào máy ghi âm, và lúc 9 giờ 30 phút lời tuyên bố này được
phát đi trên sóng. Những người như ông Võ Văn Kiệt như trút được gánh nặng khi
nghe được tuyên bố này phát trên đài Sài Gòn.
Vào
khoảnh khắc Bản Tuyên bố bàn giao chính quyền sắp được đọc vào máy ghi âm,
trước 9 giờ ngày 30-04-1975, Tướng Vannuxem đến Phủ Thủ tướng gặp ông Nguyễn
Hữu Hạnh nhờ ông Hạnh đưa vào gặp ông Minh, khi đó đang ngồi trong phòng khách
với ông Nguyễn Văn Huyền và ông Vũ Văn Mẫu. Vannuxem là thiếu tướng người Pháp
đã hồi hưu, thân Mỹ và thân cả Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Cao Văn
Viên. Vannuxem đi ngay vào câu chuyện: “Tôi ở Paris mới đến, trước khi đi có
gặp nhiều nhân vật, kể cả đại sứ Trung Cộng”. Rồi Vannuxem yêu cầu ông Minh kéo
dài cuộc chiến ít nhất hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tuyên bố bỏ Mỹ đi
với Bắc Kinh. Theo ông Vannuxem, làm như vậy Bắc Kinh sẽ gây áp lực với Hà Nội
để ngưng chiến tại miền Nam. Ông Minh không đồng ý. Khi Vannuxem về rồi, ông
Dương Văn Minh nói: “Mình đã lỡ đi với Mỹ, bây giờ lại bán nước cho Trung Cộng
sao”.
Theo kế
hoạch thì chính phủ của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu sẽ “ra mắt” vào lúc 10 giờ sáng
30-4-1975, nhưng khi các nhân vật của chính phủ cũ và mới đến số 7 Thống
Nhất thì họ nghe được Tuyên bố Bàn giao Chính quyền. Nhiều người trong số họ đã
di chuyển sang Dinh Độc Lập không phải để tuyên thệ mà để chờ đợi. Trong
thời gian ấy, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh mang Tuyên bố Bàn giao Chính quyền của Tống
thống Dương Văn Minh và Chỉ thị buông súng của Phụ tá Tổng Tham mưu
trưởng Nguyễn Hữu Hạnh sang phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Khi Tướng Hạnh
trở lại Phủ Thủ tướng thì nơi đây đã hoàn toàn vắng lặng. Ông Hạnh chạy đến nhà
ông Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp thì được biết ông Minh và gia đình đã
vào Dinh Độc Lập. Ông Hạnh đến Dinh Độc Lập. Ngoài đường lúc ấy im phắc. Ông
Nguyễn Hữu Hạnh vào Dinh bằng cổng chính, cổng Dinh mở, không lính gác.
Trước
thềm Dinh, ông Hạnh thấy một xe Jeep và một xe GMC đầy lính vũ trang. Tướng
Hạnh hỏi một sỹ quan đeo lon trung úy mới biết Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất đang gặp ông Minh ở tầng một Dinh Độc Lập.
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh định về Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông Minh giữ lại. Vừa
lúc, điện thoại tại phòng làm việc của Chánh văn phòng Tổng thống reng. Một
thiếu tá xin gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Đó là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn Lôi Hổ phụ trách phòng thủ Bộ Tổng tham mưu. Viên
thiếu tá hỏi: “Chuẩn tướng bảo chúng tôi buông súng là làm sao? Tôi không đầu
hàng đâu, tôi đã bắn cháy ba xe tăng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh giải thích và
khuyên: “Thiếu tá không nên để cho máu đổ ở giờ thứ 25”. Viên thiếu tá yêu
cầunói chuyện với Tổng thống, Tướng Hạnh mời ông Minh đến, nhưng câu chuyện
chưa xong thì chiếc tăng 843 xuất hiện. Ông Minh nói: “Quân Giải phóng đã vào
tới Dinh rồi, thôi cúp”.
Xe tăng
390
Lúc đó
là 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975. Trước đó ít phút, khi Tiểu đoàn trưởng Lôi Hổ
phòng thủ Tân Sơn Nhất bỏ đi, một dân biểu thuộc lực lượng thứ ba, Trung tá
Nguyễn Văn Binh, đã cẩn thận đóng cổng Dinh Độc Lập. Hành động này của Trung tá
Nguyễn Văn Binh đã điều chỉnh một chi tiết trong lịch sử: Chiếc tăng 843 đi theo
đường Thống Nhất từ Sở Thú tới trước rồi dừng lại trước cổng phụ trong khi xe
tăng 390 tới sau, nhưng hùng dũng húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, cánh cửa cuối
cùng của cuộc chiến.
Vào lúc
9 giờ 30 phút sáng 30-4, khi ở phía Tây Sài Gòn, ông Võ Văn Kiệt ra lệnh “giản
chính đồ đạc”, ở phía Đông, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn tăng
203, cũng nghe được tuyên bố của Tướng Dương Văn Minh qua chiếc radio mà ông
luôn đeo bên người. Phía sau ông, Tư lệnh Quân đoàn II, Tướng Nguyễn Hữu An, luôn
theo sát đốc chiến. Họ như những người lính xung trận linh cảm được chiến
thắng, càng nóng lòng hơn khi có thể “sờ” thấy ở phía trước mục tiêu cuối cùng.
Đêm
29-4, Tướng Nguyễn Hữu An gửi thư cho Lữ đoàn 203. Bức thư được Trung tá Bùi
Tùng ghi chú “Nhận lúc 24 giờ ngày 29-4-1975” viết: “Anh Tài và Tùng. Bảy chiếc
tăng và một bộ phận bộ binh đã đến cầu xa lộ Biên Hòa gặp bộ phận đặc công của
116 giữ đã hai ngày nay. Tình hình như vậy là thuận lợi do đó phải mạnh dạn
tiến lên, đừng để bọn tàn binh lẻ tẻ nó cản trở. Cố gắng đưa toàn bộ đội hình
của các anh qua bên Tây cầu đêm nay và độ 3-4 giờ sáng 30-4 là ta xốc được tới
Sài Gòn chiếm xong cầu Rạch Chiếc và Tân Cảng đến cầu Sài Gòn. Tôi đã nói anh
Ân cho 2d (tiểu đoàn) của E9 tràn về phía cầu xa lộ Biên Hòa. Các anh thi hành
khẩn trương và giữ liên lạc với tôi thường xuyên. Mục tiêu vào Sài Gòn là Dinh
Tổng thống – Đài Phát thanh, BTL (Bộ Tư lệnh) Hải quân, ngân hàng, phủ đặc ủy
trung ương tình báo./An”.
Trước
đó, vào lúc 10 giờ ngày 29-4-1975, ngay sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra
lệnh cho quân đội Sài Gòn ngừng di quân, Bộ Chính trị điện: “Gửi anh Sáu, anh
Bảy, anh Tư, / Đồng điện anh Tấn,/Bộ Chính trị và Quân uỷ đang họp thì được tin
Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị:
Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến
quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố,
tước vũ khí toàn bộ quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập
tan triệt để mọi sự chống cự của chúng. Công bố đặt thành phố Sài Gòn-Gia Định
dưới quyền của Uỷ Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. Sẽ có điện
tiếp, nhận được điện trả lời ngay. Ba”.
Rạng
sáng ngày 30-4-1975, những chiếc tăng đầu tiên của Lữ đoàn 203 chạy đến căn cứ
Nước Trong, Long Khánh. Lúc bấy giờ, Thiếu úy Lê Văn Phượng, trưởng xe 390, vẫn
chưa biết chiếc tăng T59 của mình sẽ đi vào lịch sử. Sống chết vẫn còn gang
tấc. Khi cho xe dừng lại định nấu cơm bên một bìa rừng cao su, pháo thủ số hai
của tăng 390, Đỗ Cao Trường, bị một toán thủy quân lục chiến núp trong vườn cao
su bắn bị thương. Thiếu úy Phượng ra lệnh quay nòng pháo vào vườn cao su, bắn
cho tới khi toán thủy quân lục chiến rút hết. Họ để Đỗ Cao Trường ở lại cho du
kích rồi bốn anh em lên xe tiến về Sài Gòn. Tới ngã tư Hàng Xanh, những chiếc
tăng phải chạy lòng vòng để tìm đường.
Trước đó
không lâu, trong một cánh rừng cao su, Trung tướng Lê Trọng Tấn giao nhiệm vụ
cho Quân đoàn IV: “đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất”. Tướng Nguyễn Hữu An,
tư lệnh Quân đoàn II, hỏi: “Nếu Quân đoàn II vào trước có được đánh chiếm mục
tiêu quan trọng nhất không?”. Tướng Lê Trọng Tấn gật đầu. Ngày 24-4, cũng tại
một vườn cao su ở Long Thành, Tướng Nguyễn Hữu An đặt vấn đề với Lữ đoàn 203:
“Cậu Tài (Trung tá Nguyễn Tất Tài, lữ trưởng 203) tốt nghiệp ở Liên Xô, cậu
Tùng tốt nghiệp Học viện Thiết giáp Trung Quốc, các cậu biết rõ Liên Xô khi kết
thúc Thế chiến thứ II đã dùng một sư đoàn tăng để tấn công vào sào huyệt cuối
cùng. Tại sao mình có một lữ tăng, mình không vào Dinh Độc Lập?”. Ngay sau đó,
trong khi “mũi thọc sâu” của Quân đoàn IV là bộ binh thì Tướng Nguyễn
Hữu An đã đưa Lữ tăng lên tiên phong. Xe 390 đi trước nhưng chạy thẳng theo
đường Hồng Thập Tự, thay vì đi hướng từ Sở Thú lên như 843, nên khi vào đến
Dinh Độc lập lúc 10 giờ 45 phút, đã thấy xe 843 của trung úy Bùi Quang Thận tấp
qua bên trái, dừng lại trước cổng phụ. Bùi Quang Thận phất tay ra hiệu cho xe
của Lê Văn Phượng tiến lên.
Thiếu úy
Lê Văn Phượng ngồi thụp xuống, đậy nắp tháp pháo và lệnh cho xe ủi vào cổng
chính. Anh nghe tiếng “rầm” và tiếp đó là âm thanh bánh xích nghiền nát cánh
cổng sắt. Biết cổng không có mìn, Lê Văn Phượng mở nắp tháp pháo, đứng nhô lên
nửa người, từ xa anh thấy một nữ phóng viên “Tây” ngồi trên thảm cỏ. Nhưng khi
xe anh cán lên bãi cỏ thì không thấy chị phóng viên đâu nữa. Hai mươi năm sau,
Lê Quang Phượng sẽ gặp lại người phụ nữ ấy, còn lúc bấy giờ thì anh không có
thời gian để tìm xem chị ở đâu.
Đến thềm
Dinh, anh quay lại, thấy xe 843 vẫn đậu chỗ cũ, nhưng Trung úy Bùi Quang Thận
thì đã nhảy xuống, chạy núp theo sau xe 390, tay cầm lá cờ khổ nhỏ, loại cờ
được để sẵn rất nhiều ở trên mỗi xe để cứ chiếm được mục tiêu quan trọng nào
lại cắm lên. Pháo thủ số 1 của xe 390 cũng cầm cờ định nhảy xuống, nhưng Lê Văn
Phượng ra lệnh: “Anh Thận cầm cờ rồi, hãy nạp pháo, chuẩn bị!”. Rồi Lê Văn
Phượng giữ lấy khẩu đại liên, yểm trợ. Nhưng từ lúc ấy, họ không còn phải bắn
một phát đạn nào.
Khi
chiếc tăng 390 đỗ lại, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn xách AK nhảy xuống,
chờ đại đội trưởng Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào. Cả hai chạy lên thềm Dinh
trong tư thế được mô tả là sẵn sàng chiến đấu. Bùi Quang Thận nhớ lại là anh đã
hơi lo khi thấy bên trong có người mặc quân phục. Có thể vì quá căng thẳng và
có thể vì là một người lính nông dân lần đầu đứng trước một tấm kính khổng lồ,
Bùi Quang Thận lao vào cửa kính mạnh đến nỗi anh ngã bật ra phía sau trong khi
tay vẫn không rời lá cờ. Từ trong Dinh, một người bận đồ dân sự chạy ra, mời
vào.
Bùi
Quang Thận đứng trước một “Nội các” có lẽ cũng bối rối không kém. Không biết
phải làm gì hơn, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở lại “canh chừng”, chờ
cấp chỉ huy đến còn mình thì làm nốt “vai trò lịch sử”, cắm cờ trên nóc Dinh
Độc Lập. Chỉ huy lực lượng Phòng vệ Phủ Tổng thống, Đại tá Chiêm, được lệnh
hướng dẫn Bùi Quang Thận đi thang máy lên nóc Dinh. Cùng đi theo hỗ trợ có sinh
viên Nguyễn Hữu Thái (cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn) và Tiến sỹ Huỳnh
Văn Tòng.
Khi ấy,
thang bộ của Dinh chưa sử dụng được vì ngày 8-4-1975 đã bị phi công Nguyễn
Thành Trung, một người được Cách Mạng cài vào quân đội Sài Gòn, ném bom làm
hỏng. Đại tá Chiêm dẫn ba người đến trước thang máy, loại phương tiện mà đối
với Bùi Quang Thận còn lạ hơn những tấm kính khổ rộng rất nhiều. Bùi Quang Thận
nhất quyết không vào; về sau anh kể lại: “Lúc đó tôi thấy thang máy giống như…
cái hòm, vào đó nhỡ nó nhốt mình luôn, biết bao giờ mới ra được!”. Sau khi nghe
Đại tá Chiêm giải thích, Bùi Quang Thận mới chịu dùng thang máy.
Phải mất
khá lâu, ba người đi cùng mới giúp Bùi Quang Thận hạ lá cờ ba sọc vàng xuống
bởi nó khá lớn và được buộc giây chắc chắn. Bùi Quang Thận kéo lá cờ của Mặt
trận Dân tộc Giải phóng nửa xanh nửa đỏ có sao vàng ở giữa lên, sau khi viết và
ký tên vào: “11g30 ngày 30-4. Thận”.
Đầu hàng
Khi Bùi
Quang Thận được Đại tá Chiêm dẫn lên nóc Dinh, Trung úy Vũ Đăng Toàn ở lại tầng
hai. Trung úy Toàn viết: “Tôi dồn toàn bộ nội các Dương Văn Minh vào một chỗ.
Dồn xong thì ông Nguyễn Hữu Hạnh mời ông Dương Văn Minh ra chào. Khi ông Minh
vừa ra thì anh Phạm Xuân Thệ cùng hai trợ lý đến. Anh Thệ nói: ‘Tôi là đại úy
Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó Trung đoàn 66′”.
Borries
Gallasch, phóng viên tạp chí Tấm Gương của Cộng hòa Liên bang Đức, người châu
Âu duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào thời điểm đó, tường thuật: “Tay Thệ
cầm súng ngắn đã lên đạn, một khẩu K54 của Nga, Thệ rất phấn khích la lớn yêu
cầu ông Minh ra đài phát thanh. Nhưng tướng Minh không muốn đi. Ông ta đề nghị
rằng bài nói của ông phải được thu âm vào máy thu ở trong Dinh. Họ tranh luận
việc đó. Càng lúc càng nhiều người lính Giải phóng chạy vào. Rồi họ bắt đầu tìm
máy thu nhưng không có kết quả. Không có một cái máy ghi âm nào trong Dinh cả.
Sự hoang mang chấm dứt khi người chỉ huy của quân Giải phóng, Chính ủy Bùi Văn
Tùng, xuất hiện”.
Ở cửa
Dinh, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 đã nghe báo cáo: “Có
Tổng thống Ngụy”. Ông Tùng quá mừng: “Vớ được cả tổng thống cơ à!”. Tổng thống
Dương Văn Minh thấy ông Tùng, một người cao lớn, bước vào, thì lịch sự chào:
“Thưa ông, chúng tôi đợi các ông vào đã lâu rồi để bàn giao chính quyền”.
Ông Bùi
Văn Tùng nói: “Các ông là người bại trận. Các ông không có gì để bàn giao cả mà
chỉ có đầu hàng vô điều kiện”. Ông Tùng hỏi Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh: “Đường
dây liên lạc từ đây qua đài thế nào?”. Ông Hạnh nói: “Hư hết rồi”. Ông Tùng
quyết định cho đưa vị tổng thống bị bắt giữ đến đài phát thanh.
Khi xe
tăng 390 dừng lại, mọi người xuống hết, Trung sỹ Nguyễn Văn Tập, lái xe 390,
cũng định đi vào trong Dinh, nhưng khi nhảy lên bậc thềm ngoảnh lại thấy vắng
quá. Anh nghĩ, “nhỡ địch quay lại chiếm mất xe mình thì sao?”, bèn quay lại
nhảy vào ghế lái ngồi thò đầu ra ngoài. Chỉ một lúc sau, Trung sỹ Tập thấy “Nội
các Ngụy” ra, đi rất hiên ngang. Cùng đi có cả Phạm Xuân Thệ nhưng khi ấy anh
Tập chỉ nhận ra thủ trưởng của mình là Chính ủy Bùi Văn Tùng. Trung sỹ Tập có
lẽ liên hệ đến bức ảnh của Phan Thoan và lời đề nổi tiếng của Tố Hữu: “O du kích
nhỏ dương cao súng / Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu”, nên kêu lên: “Thủ
trưởng ơi, thủ trưởng bắt nó phải cúi đầu xuống chứ!” Trung tá Bùi Văn Tùng
nói: “Việc ấy là của tớ”.
Chiếc xe
Jeep mang biển số 15770 mà Trung đoàn 66 thu được từ chiến trường Đại Lộc,
Quảng Nam, do chiến sỹ Đào Ngọc Vận lái, được trưng dụng để chở Tổng thống
Dương Văn Minh đi từ Dinh Độc Lập qua đài. Đào Ngọc Vận kể: “Tôi thấy Trung
đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn theo hai người đàn ông tiến lại chiếc xe Jeep 15770
mà tôi cầm lái. Trung đoàn phó cùng một người ngồi hàng ghế phía trên, người
kia ngồi phía dưới, cùng Trung úy Phùng Bá Đam, Trung úy Nguyễn Khắc Nhu. Hai
chiến sĩ Nguyễn Huy Hoàng và Bàng Nguyên Thất ngồi hai bên thành xe. Mãi sau
này tôi mới biết người to béo, đeo kính trắng, đi giày đen ngồi ngay bên cạnh
mình là Tổng thống Dương Văn Minh, và vị quan chức mặc bộ complet, sơ mi trắng
ngồi phía sau là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu”.
Nhà báo
Borries Gallasch viết tiếp: “Chỉ có hai chiếc xe của chúng tôi chạy giữa thành
phố lúc ấy – một thành phố đã từng sôi sục mà nay sự sợ hãi bỗng nhiên được làm
dịu đi – qua Tòa đại sứ Mỹ trống hoác, đến Đài Phát thanh nằm trên đường Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Chúng tôi đi vào phòng thu nhỏ trên lầu một. Những kỹ thuật viên đã
lấy chân dung của Thiệu từ trên tường xuống và ném qua cửa sổ ra sân. Chúng tôi
ngồi bất động một lát. Ông Mẫu quạt mặt mình bằng một quyển sách. Tổng thống
Dương Văn Minh và Chính ủy xe tăng Bùi Văn Tùng ngồi trên hai chiếc ghế và tôi
ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ. Ông Tùng thảo văn kiện đầu hàng trên một
mảnh giấy màu xanh” .
Trung tá
Bùi Văn Tùng nhớ lại: “Tôi với ông Dương Văn Minh ngồi cùng một băng ghế dài.
Khi ấy, sau 8-9 đêm mất ngủ, tôi có cảm giác mệt rã người. Nhưng một ý nghĩ
chợt thoáng qua, “ổng mà nói linh tinh thì chết”. Mồ hôi tự nhiên toát ra như
tắm, người tỉnh hẳn, tôi nói: “Ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện”. Tổng
thống Dương Văn Minh nói: “Ông muốn gì hãy ghi ra”.
Trung tá
Bùi Văn Tùng viết ngắn gọn: “Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài
Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân
Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố Chính quyền Sài Gòn từ trung ương
đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại
cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”.
Tướng
Dương Văn Minh đọc xong, Trung tá Bùi Văn Tùng nói tiếp vào máy ghi âm: “Chúng
tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố
thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không
điều kiện của tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn”. Thủ tướng
Vũ Văn Mẫu cũng được dành cho ít phút để phát biểu và đây, có lẽ,mới là “chính
kiến” của nhóm ông: “Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi – giáo sư
Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng – kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng
ngày hòa bình của dân tộc và trở lại sinh hoạt bình thường. Các nhân viên của
các cơ quan hành chánh quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của chính quyền
cách mạng”.
Ông Võ
Văn Kiệt đến Dinh khi nơi này đã được tiếp quản bởi một lực lượng của Quân đoàn
IV. Ông là vị trung ương uỷ viên Đảng Lao động Việt Nam đầu tiên đến Dinh Độc
Lập. Ông Kiệt nắm thêm tình hình quân sự và nhắc nhở chỉ huy các đơn vị chiếm
đóng đối xử tốt với những người trong chính phủ ông Dương Văn Minh, chờ lệnh.
Ông Kiệt
là bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản, là vị trí thực sự “đứng đầu” ở
Thành phố lúc bấy giờ. Tuy nhiên, người công khai xuất hiện trong vai trò đứng
đầu tại thời điểm ấy lại là Trần Văn Trà. Ngày 1-5-1975, khi đang ở Sở chỉhuy
tiền phương, Thượng tướng Trần Văn Trà được ông Lê Đức Thọ và ông Phạm Hùng
thông báo: “Điện anh Ba Lê Duẩn nói Bộ Chính trị quyết định cậu làm chủ tịch Uỷ
Ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định. Đi ngay cho kịp”.
Ông Võ
Văn Kiệt cho rằng đây là một thay đổi hợp lý. Sài Gòn mới tiếp quản cần một
quân nhân đồng thời phải là một quân nhân không quá xa lạ với dân chúng.
Tướng
Trà từng là trưởng Phái đoàn Quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền
Nam Việt Nam trong Ban Liên hợp Quân sự Bốn bên thực thi Hiệp định Paris. Năm
1973, ông đã có một thời gian khá lâu ở Sài Gòn, và đã từng được báo chí Sài
Gòn nhắc đến.
Ngày
2-5, Tướng Trần Văn Trà mới về đến Dinh Độc Lập. Ông kể: “Theo chỉ thị của Bộ
Chính trị, tôi cho thả tất cả những nhân vật trọng yếu của ngụy quyền mà từ hôm
giải phóng Sài Gòn, bộ đội ta đã giam giữ họ tại một phòng ở đây. Tôi chỉ gặp
những người đứng đầu: Dương Văn Minh, tổng thống, Nguyễn Văn Huyền, phó tổng
thống và Vũ Văn Mẫu, thủ tướng ngụy quyền, giải thích cho họ chính sách của
cách mạng là quang minh, chính đại, độ lượng, khoan hồng. Tôi đã nhấn mạnh: Tất
cả những việc làm đã qua chúng tôi xếp nó vào quá khứ, chúng tôi căn cứ vào
thái độ và hành động từ ngày nay trở đi. Tôi mong họ quan niệm được sự thắng lợi
vĩ đại của dân tộc vừa rồi mà tự hào rằng mình cũng là người Việt Nam. Có vẻ họ
tỏra xúc động. Dương Văn Minh đã phát biểu: Tôi vui mừng được là công dân của
một nước Việt Nam độc lập”.
Nên tìm bản "Bên thắng cuộc" mà đọc toàn bộ
Trả lờiXóa"Bên thắng cuộc" có phải do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phát hành không hả bạn ND 09:00?
Trả lờiXóaBạn N 09.08 hỏi thế, tức là bạn chưa biết sách này. Đây là cuốn sách do Huy Đức, nhà báo, viết và xuất bản tại Mỹ, trên mạng. Tuy nhiên, bạn có thể download free trên mạng. Tôi tìm đọc nó vì sau khi đọc bài đả phá trên báo Công an. Bài viết đó không mấy dòng nói về nội dung, mà lại bôi xấu đời tư tác giả. Phàm là không dám bàn thẳng vào nội dung, mang chuyện cá nhân ra bôi nhau, tức là lý của anh yếu, và nội dung của nó đáng xem. Ngô Bảo Châu nói về sự học hành ở Trường Đại học KHXH&NV có nhấn mạnh, chỉ nên sùng bái tác phẩm, sản phẩm, chứ không nên sùng bái cá nhân, tác giả. Cá nhân có thể có nhiều điểm rất xấu, nhưng tác phẩm, sản phẩm của họ có thể là thượng hạng đóng góp cho loài người. Tôi nhất trí quan điểm đó, và sách "Bên thắng cuộc" tuy còn khiếm khuyết nhưng có cái nhìn khách quan, không bị nhuộm màu chính trị và tuyên truyền.
XóaTôi quen biết nhiều nhà văn nhà thơ, đúng là khi biết con người của họ, thì khác một trời một vực so với tác phẩm của họ. Tôi không biết Huy Đức, nhưng tôi có làm báo, và những tố cáo cho rằng anh này làm mảng kinh tế ở báo Tuổi trẻ đã thu hoạch được nhiều lợi lộc, chắc là có thật. Một nhà văn đàng hoàng ở TPHCM có bảo tôi (cách đây mấy năm), khi ông Võ Văn Kiệt chết, tài liệu mật ông ấy di chúc để lại cho Huy Đức, nay đọc Bên thắng cuộc, thì tôi đoán, Huy Đức còn nhiều chuyện chưa nói. Anh ta chỉ nói cái điều mà thế hệ sau biết rõ, nhưng không nói ra. Đó là: Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam thực chất là cuộc nội chiến, mà một bên thắng, một bên thua, và nhân dân thì thua hoàn toàn; Chính sách sai lầm của Bên thắng cuộc đã đẩy dân tộc đến hố sâu chia rẽ, đó là cuộc cải tạo ngụy quân ngụy quyền (chỉ có Trung Quốc và Việt Nam trả thù bên đã đầu hàng); chính sách vá víu cứu vớt nền kinh tế, kể cả chuyện có chủ trương từ cấp cao nhất bảo kê cho vượt biên, cải tạo tư bản đã đẩy đất nước đến cùng cực; người thực sự đổi mới thì bị tội, còn kẻ bóp chết đổi mới thì đang được dư luận nhầm lần ca ngợi... Từng ấy thứ đủ cho cán bộ quan liêu ngày nay căm ghét cuốn sách này, nhưng thực ra 90% là Huy Đức hệ thống lại những điều đã biết, đã có, trích đăng chính báo Nhân dân và tài liệu công khai. (NXH)
XóaĐúng là "Bên Thắng cuộc" của tác giả Huy Đức đã kể lại rất tỉ mỉ những chi tiết cả công khai và bí mật về những nhận vật đã tham gia cuộc chiến. Tuy nhiên, tôi biết nhiều bạn chưa có điều kiện để tiếp cận tác phẩm này. Qua bản sưu tầm do NCT tóm lược, bạn đọc sẽ hiểu được cơ bản không khí và diễn biến những ngày cuối cùng của cuộc chiến (LPT)
Trả lờiXóaĐọc bài này thấy Bên thua trận, nhất là tướng Dương Văn Minh thiện chí đấy chứ. Họ đều là những người có học thức và biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết. Ai có thông tin về những thiệt hại của các bên qua cuộc chiến tranh này cho bọn em biết với (Thế hệ 8x)
Trả lờiXóaNghĩ cho cùng
Trả lờiXóaMọi cuộc chiến tranh
Phe nào thắng thì nhân dân đều bại (Nguyễn Duy)
Theo những tài liệu đã được công bố, thì cuộc chiến tranh chống Mỹ 20 năm đã gây ra cái chết cho nhiều triệu người Việt Nam, 58.000 người Mỹ và hàng chục ngàn người thuộc các nước đồng minh của Mỹ. Ngoài ra còn hàng triệu người bị thương. ba triệu người Việt Nam đang bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam. Chỉ tính riêng số quân nhân, số lượng thương vong của người Việt Nam ở cả hai phía là:
Trả lờiXóa- Phía Quân đội NDVN và Quân giải phóng miền Nam: 1,1 triệu quân chết, trong đó 300.000 quân nhân mất tích chưa tìm được xác;600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.
- Phía Quân lực Việt Nam cộng hòa: Khoảng 300.000 người tử trận hoặc mất tích và khoảng 1.170.000 người bị thương.
Cả dân tộc đã phải trả một cái giá quá đắt mà vẫn không giành được độc lập tự do trọn vẹn.