Bài viết “Truyện
vui về Triết gia Trần Đức Thảo” vừa đăng trên blogE đã cho bạn đọc thấy được
con người và nhân cách của một nhà triết học người Việt Nam nổi tiếng thế giới
thế kỉ trước. Ngày nay, công lao và những đóng góp của ông cho nền khoa học và giáo
dục nước nhà đã được nhìn nhận và đánh giá lại, nhưng 55 năm trước người ta đã
công kích ông như thế nào? Chúng tôi xin đăng lại bài viết của tác giả Khắc
Thành đăng trên tạp chí Học tập vào tháng 6 năm 1958 để các bạn cùng suy ngẫm
về những hậu quả mà đất nước ta phải gánh chịu cho đến hôm nay và nhiều năm sau
nữa, do nhận thức ấu trĩ của những thế hệ đi trước chúng ta. Và những thế hệ
tiếp sau chúng ta liệu có khả năng khắc phục những hậu quả mà cha ông chúng để
lại? (BBT)
QUÉT SẠCH NHỮNG NỌC ĐỘC
CỦA TRẦN ĐỨC THẢO TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC
Khắc Thành
Dưới ánh
sáng hai văn kiện của hội nghị các đảng cộng sản và đảng công nhân ở
Mạc-tư-khoa, trong không khí phấn khởi học tập về tình hình và nhiệm vụ ở miền
Bắc nước ta, chúng ta đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại, chống các
tư tưởng và hành động thù địch đối với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là
trong văn nghệ và trong ngành giáo dục đại học.
Ánh sáng của
chủ nghĩa Mác-Lê-nin và của Đảng đã chiếu rọi vào những góc tối của đời sống xã
hội và tư tưởng, đã giúp chúng ta thấy rõ bộ mặt thật ghê tởm, xấu xa của bọn
chống Tổ quốc, chống chế độ, chống nhân dân, chống Đảng. Những chiếc mặt nạ
"mác xít" giả hiệu, "sáng tạo", "chân lý", v.v…
của chúng đã rơi một cách thảm hại. Nhưng đấy chỉ là bước đầu. Chúng ta còn
phải tiếp tục tẩy sạch những nọc độc tư tưởng mà trước đây chúng đã gieo rắc.
Cần nhổ sạch những thứ cỏ dại ấy trong vườn hoa tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Phải
thanh toán những di hại của chủ nghĩa xét lại trong lĩnh vực tư tưởng và văn
hóa. Đấy là một việc rất cần thiết, có thế mới đạt được chiều sâu của thắng lợi
vừa rồi.
Đối với
trường đại học, yêu cầu trên càng cấp bách. Vì đại học là một trong những nơi
đào tạo ra nhân tài của chế độ ta. Và vì trong thời gian qua, đại học cũng là
một nơi mà bọn thù địch đã tập trung hoạt động hòng xây một "pháo đài thứ
hai" chống lại chế độ miền Bắc. Trên báo chí, chúng ta đã có dịp nêu hệ
thống tư tưởng và hành động của Trần-Đức-Thảo chống Tổ quốc, chống chủ nghĩa xã
hội, chống nhân dân, chống Đảng trong suốt một quá trình lâu dài với tính chất
và tác hại chính trị nghiêm trọng của nó. Riêng trong phạm vi đại học,
Trần-Đức-Thảo đã liên tục phá hoại đoàn kết, cản trở việc xây dựng nhà trường;
nhưng một tác hại sâu xa hơn là Trần-Đức-Thảo đã lợi dụng cương vị giáo sư
triết học, để "giảng dạy" chủ nghĩa Mác theo một tinh thần xuyên tạc
tinh vi, với những dụng ý thâm độc, bằng phương pháp và những luận điểm nguy
hiểm. Những nọc độc đó đã nhiễm khá sâu trong sinh viên, có nhiều người hiện
nay đã tốt nghiệp là giáo viên, hoặc cán bộ văn hóa. Trong một thời kỳ khá dài,
Trần-Đức-Thảo đã khoác được khá kín đáo chiếc áo "mác xít", và do đấy
đã gây được ít nhiều "uy tín". Sự giảng dạy của Trần-Đức-Thảo giống
như một thứ thuốc phiện, nó làm giảm sút, thậm chí tiêu diệt nhuệ khí, nhiệt
tình và lòng tin của nhiều sinh viên, phát triển cái "chất" hoài nghi
trong con người cũ của một số sinh viên.
I.
Mang nặng ý
thức thù địch đối với chủ nghĩa xã hội, "sợ và ghét cộng sản" đến cao
độ, Trần-Đức-Thảo đã "say mê" trong hành động chống đối chế độ ta,
trong nhà trường cũng như ngoài xã hội. Trên ghế giáo sư giảng dạy triết học
duy vật của trường Đại học sư phạm, Trần- Đức-Thảo đã hoạt động một cách tinh
vi, khôn ngoan hơn ở ngoài xã hội. Ở đây, Trần-Đức-Thảo đã xuyên tạc tinh thần
chủ nghĩa Mác một cách tổng quát qua các luận đề giảng dạy, và chủ yếu dùng
phương pháp giảng dạy xảo quyệt để thực hiện âm mưu đó. Phương pháp giảng dạy
ấy có thể tóm tắt trong bốn điểm sau đây:
-
Đem cái chính làm phụ, biến cái phụ thành chính.
-
Qua sự sắp xếp nội dung và phát triển chủ đề, thực hiện lối
giảng dạy có ẩn ý độc ác;
-
Gây ấn tượng sâu sắc với sự so sánh liên tưởng hồ đồ về
phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa và các phương thức sản xuất trước nó;
-
Hết sức tránh việc liên hệ với thực tế, giữ sự suy nghĩ của
sinh viên ở những mức độ nửa vời, lơ lửng.
Xin kể một
số ví dụ:
Ở một lớp
"triết học" nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật lịch sử, Trần-Đức-Thảo đã
dùng lối giải đáp "thắc mắc" để nhồi vào óc sinh viên một số quan
điểm xuyên tạc nguy hiểm về chủ nghĩa Mác. Trong một buổi, giảng về điểm
"từ phương thức sản xuất cũ sang phương thức sản xuất mới, kiến trúc
thượng tầng cũng biến đổi"; Trần- Đức-Thảo chỉ nhắc qua đến sự biến đổi
của kiến trúc thượng tầng, cho là "đã biết rồi", trái lại chú ý nhấn
mạnh và "phát triển" một điểm mới là vấn đề "vai trò cá
nhân" trong sự biến đổi ấy. Một buổi khác, Trần-Đức-Thảo xuyên tạc tinh
thần ý kiến của Lê-nin, nhấn mạnh rằng giai cấp công nhân không thể có lý luận
cách mạng khoa học, mà chỉ có những trí thức tư sản tiến bộ đi với giai cấp
công nhân mới sáng tạo được chủ nghĩa cộng sản khoa học. Lại một buổi sau khi
Trần-Đức-Thảo "giới thiệu" luận điểm: "đãi ngộ xã hội chủ nghĩa
công bằng hơn các thứ đãi ngộ trước nó, nhưng xét cho cùng cũng chỉ là một hình
thức bất công" (ở đây, Trần-Đức-Thảo đã thay chữ "không bình
đẳng" của Mác bằng chữ "bất công") thì y đã lướt qua tính chất
công bằng hơn của sự đãi ngộ trong chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ
trước, mà lại "phát triển" rất rộng cái mà y đã xuyên tạc thành
"hình thức bất công". Trong nhiều buổi khác, Trần-Đức-Thảo đã
"phát triển" luận điểm về "tính tương đối độc lập của các hình
thái ý thức trong kiến trúc thượng tầng", trong đó chữ "tương
đối" bị bỏ qua, trái lại nhấn mạnh và "phát triển" khái niệm
"tính độc lập", hòng tạo "cơ sở lý luận" cho khuynh hướng
tách rời chính trị, tách rời sự lãnh đạo của Đảng, nẩy ra trong một số nhà
chuyên môn và văn nghệ sĩ, v.v…
Qua sự sắp
xếp để "giải đáp" những điểm trên và một số điểm khác nữa, Trần-Đức-
Thảo đã tiêm vào óc những người dự lớp "triết học" một số nọc độc.
Dần dà, một cách rất "ngẫu nhiên" và "vô tình", trong tâm
trí anh em thấy nổi bật lên, khác trước, vai trò có tính chất "tất yếu
lịch sử" của cá nhân, của "tri thức tư sản và tiểu tư sản tiến
bộ", tác dụng "độc lập"của chuyên môn với tư cách là các hình
thái ý thức, v.v… Kết quả là trong đầu óc anh em mọc lên một số câu hỏi: tại
sao về những điểm ấy, trong những giáo trình triết học và chính trị của các
giáo sư khác từ trước đến giờ, không hề thấy đả động gì đến? Vì "kém lý
luận" chăng? Vì "một chiều" chăng? Vì "công nông chủ
nghĩa", xem nhẹ vai trò của "trí thức tư sản và tiểu tư sản tiến
bộ" chăng? Tại chính trị (tức là Đảng) "dốt" chuyên môn, lại
thêm thành kiến hẹp hòi, nên không dám phóng tay sử dụng chuyên môn chăng? Yêu
sách đòi "trả chuyên môn cho chuyên môn" phải chăng là đúng? Và cũng
một cách rất "tự nhiên", anh em không khỏi không liên hệ và suy nghĩ
một cách "ngậm ngùi" đến cương vị xã hội của bản thân.
Khi giảng về lịch sử tư tưởng cổ đại, phần mà Trần-Đức-Thảo nói đến một cách rất hứng thú và "say mê", nhất là lúc phân tích về Hê-ra-cơ-lít, nhà duy vật phái I-ô-niêng. Theo Trần-Đức-Thảo, Hê-ra-cơ-lít sở dĩ nắm được tư tưởng biện chứng một cách sâu sắc là do ông ta thuộc thành phần giai cấp quý tộc phá sản. Ông ta tuy là quý tộc cũ nhưng tiến bộ, đã rời bỏ giai cấp cũ; qua mâu thuẫn nội bộ của giai cấp cũ đang tan rã, nó phản ánh đấu tranh của nhân dân, Hê-ra-cơ-lit mặc dù không phải thuộc giai cấp mới đang lên, đã nắm được tư tưởng biện chứng hơn bọn họ, vì trên cơ sở một "phương thức sản xuất máy móc", giai cấp mới, -tư sản công thương- chỉ nắm được một "lý tính máy móc". Và Trần-Đức-Thảo đưa ra một luận điểm mà y trình bày như một thứ quy luật: "nói chung, trong những xã hội có giai cấp thì giai cấp tiến bộ căn bản cũng là một giai cấp bóc lột, thành ra tuy nó nắm được lập trường duy vật chủ nghĩa nhưng không nắm được phương pháp biện chứng. Lý tính mà nó nắm vẫn là lý tính máy móc, nó là phản ánh phương pháp bóc lột chỉ huy máy móc, qua phương pháp ấy nó nắm được bước tiến của sức sản xuất, nhưng lại nằm trong phạm vi máy móc. Cũng vì vậy mà lúc số trường hợp tư tưởng biện chứng xuất hiện trong xã hội đối kháng thì ít khi nó xuất phát từ giai cấp tư sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng bấy giờ. Thực tế nó xuất phát từ những phần tử quý tộc tiến bộ, do đấy mới nắm được quá trình tan rã và mâu thuẫn nội bộ trong bản thân mình. Vị trí quý tộc có thể cho chúng ta hiểu vì sao mà phong trào nhân dân lại được biểu hiện dưới hình thức biện chứng, nhưng tất nhiên nó không phải là nguồn gốc, là cơ sở của tư tưởng biện chứng…"
Khi giảng về lịch sử tư tưởng cổ đại, phần mà Trần-Đức-Thảo nói đến một cách rất hứng thú và "say mê", nhất là lúc phân tích về Hê-ra-cơ-lít, nhà duy vật phái I-ô-niêng. Theo Trần-Đức-Thảo, Hê-ra-cơ-lít sở dĩ nắm được tư tưởng biện chứng một cách sâu sắc là do ông ta thuộc thành phần giai cấp quý tộc phá sản. Ông ta tuy là quý tộc cũ nhưng tiến bộ, đã rời bỏ giai cấp cũ; qua mâu thuẫn nội bộ của giai cấp cũ đang tan rã, nó phản ánh đấu tranh của nhân dân, Hê-ra-cơ-lit mặc dù không phải thuộc giai cấp mới đang lên, đã nắm được tư tưởng biện chứng hơn bọn họ, vì trên cơ sở một "phương thức sản xuất máy móc", giai cấp mới, -tư sản công thương- chỉ nắm được một "lý tính máy móc". Và Trần-Đức-Thảo đưa ra một luận điểm mà y trình bày như một thứ quy luật: "nói chung, trong những xã hội có giai cấp thì giai cấp tiến bộ căn bản cũng là một giai cấp bóc lột, thành ra tuy nó nắm được lập trường duy vật chủ nghĩa nhưng không nắm được phương pháp biện chứng. Lý tính mà nó nắm vẫn là lý tính máy móc, nó là phản ánh phương pháp bóc lột chỉ huy máy móc, qua phương pháp ấy nó nắm được bước tiến của sức sản xuất, nhưng lại nằm trong phạm vi máy móc. Cũng vì vậy mà lúc số trường hợp tư tưởng biện chứng xuất hiện trong xã hội đối kháng thì ít khi nó xuất phát từ giai cấp tư sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng bấy giờ. Thực tế nó xuất phát từ những phần tử quý tộc tiến bộ, do đấy mới nắm được quá trình tan rã và mâu thuẫn nội bộ trong bản thân mình. Vị trí quý tộc có thể cho chúng ta hiểu vì sao mà phong trào nhân dân lại được biểu hiện dưới hình thức biện chứng, nhưng tất nhiên nó không phải là nguồn gốc, là cơ sở của tư tưởng biện chứng…"
Ở đây,
Trần-Đức-Thảo không trực tiếp "liên hệ" và công khai "so
sánh", nhưng lối giảng hồ đồ và nhập nhằng đó không thể không dẫn sinh
viên đến "những liên tưởng lệch lạc, nguy hiểm. Thực tế trong anh em đã có
sự "liên hệ" với trường hợp của Trần-Đức-Thảo, anh em lại càng tin
tưởng ở "năng lực"của y, và không ít anh em dã nghĩ rằng: nếu
Trần-Đức-Thảo, mặc dù không xuất thân công nông; vẫn "nắm" được học
thuyết Mác "sâu sắc" hơn nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng công nông,
thì điều ấy cũng có "cơ sở lý luận" của nó trong vị trí giai cấp của
Trần-Đức-Thảo.
Xuyên tạc
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng;
Trần-Đức-Thảo đưa ra luận điểm: "trong kiến trúc thượng tầng", có một
số bộ phận bảo vệ cơ sở, một bộ phận chống lại cơ sở. Bộ phận chống lại này
chính là tư tưởng tiến bộ, và như trong xã hội tư sản là tư tưởng
Mác-Lênin." Ở đây, dụng ý độc ác của Trần-Đức-Thảo rất rõ rệt. Đương nhiên
trong các hình thái xã hội khác, kiến trúc thượng tầng không những bao gồm hệ
tư tưởng (tức là các tư tưởng và các cơ quan tương ứng với những tư tưởng đó)
của giai cấp thống trị, mà còn bao gồm cả hệ tư tưởng của giai cấp bị trị,
trong đó hệ tư tưởng của giai cấp thống trị là bộ phận chủ yếu và chiếm vị trí
thống trị. Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị thì thể hiện và nhằm bảo vệ lợi
ích của giai cấp thống trị, nó bảo vệ và củng cố chế độ xã hội do giai cấp
thống trị xây dựng; trái lại hệ tư tưởng của giai cấp bị trị thì thể hiện và
nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp bị trị, nó chống lại chế độ xã hội hiện hành.
Nhưng như thế hoàn toàn không có nghĩa là trong kiến trúc thượng tầng có một bộ
phận bảo vệ cơ sở. Chia ra như thế lá máy móc, là không phù hợp thực tế lịch
sử, là xuyên tạc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề này. Thực tế lịch
sử đã chứng tỏ rằng muốn bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng
cố chế độ xã hội do giai cấp thống trị xây dựng, hệ tư tưởng của giai cấp thống
trị không nhất định lúc nào cũng bảo vệ cơ sở, mà có khi còn gây ra những biến
đổi cần thiết trong cơ sở; trái lại, hệ tư tưởng của giai cấp bị trị không phải
lúc nào cũng chống lại cơ sở, mà có khi còn ủng hộ cơ sở, nhất là khi quan hệ
sản xuất còn thích hợp với tính chất của sức sản xuất. Đến như tính chất và tác
dụng của mỗi hệ tư tưởng trong kiến trúc thượng tầng thì phải xét cụ thể, không
thể khẳng định một cách hồ đồ là "bộ phận chống lại chính là tư tưởng tiến
bộ", như Trần-Đức-Thảo đã làm. Nói chung, trong các xã hội do giai cấp bóc
lột thống trị, chỉ có hệ tư tưởng của giai cấp bị trị đang lên chống lại chế độ
hiện hành là có tính chất tiến bộ và có tác dụng cách mạng. Trái lại, trong xã
hội do giai cấp công nhân và nhân dân lao động thống trị, trong chế độ xã hội
chủ nghĩa thì hệ tư tưởng chống lại chế độ hiện hành chỉ có tính chất lạc hậu,
phản động, và có tác dụng phá hoại, phản cách mạng, bởi vì nó thể hiện lợi ích
của các giai cấp bóc lột đã hoặc đang bị đánh đổ, và nó nhằm khôi phục chế độ
bóc lột cũ. Điều đó đã rõ ràng. Thế thì tại sao Trần-Đức-Thảo giảng dạy trong
một trường đại học của chế độ ta là chế độ do giai cấp công nhân và nhân dân
lao động làm chủ, lại nhập nhằng nói đến tính chất "tiến bộ" của cái
gọi là "bộ phận chống lại" trong kiến trúc thượng tầng? Rõ ràng là
Trần-Đức-Thảo muốn dẫn sinh viên đến những "liên hệ" và "suy
luận" lệch lạc, nguy hiểm về những hiện tượng và tư tưởng thù địch đối với
chế độ xã hội chủ nghĩa; rõ ràng là Trần-Đức-Thảo đã mưu toan đưa ra "cơ
sở lý luận" cho âm mưu đen tối của bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm, hòng
mê hoặc và kích thích sinh viên và một số người khá hành động theo "tư
tưởng tiến bộ" của chúng để chống lại chế độ ta, chống lại chủ nghĩa xã
hội, chống lại lợi ích của Tổ quốc, chống lại sự lãnh đạo của Đảng.
Trong một số
luận điểm khác, Trần-Đức-Thảo đã "phát triển" vấn đề khá sâu khi nói
về các hình thái của kiến trúc thượng tầng, về sự tồn tại và "sinh
mệnh" của những hình thái ấy. Y nói:
"Từ
chế độ xã hội này sang chế độ xã hội kia, có bộ phận bị thủ tiêu (bộ phần trực
tiếp đối kháng), có bộ phận không trực tiếp đối kháng với chế độ mới thì không
bị thủ tiêu, mà còn được giữ lại và phát triển, ví dụ như tôn giáo… Có bộ phận
không phải là lạc hậu nhưng cũng không phải là đặc biệt tiến bộ như ngữ ngôn,
như cả một tài sản khái niệm chung về luận lý, nghệ thuật, khoa học, triết học
v.v… xưa là toàn bộ, nay không phải là toàn bộ nữa, nhưng ta vẫn dùng trong đời
sống hàng ngày; những cái đó không thể bị thủ tiêu, cũng như những cái thuộc
phong tục tập quán vẫn đều còn giữ lại…"
"Từ
cơ sở kinh tế lên dần đến trên thượng tầng 1 (các tổ chức chính trị, pháp lý)
và thượng tầng 2 (các hình thái ý thức), thì càng nặng về cải tạo làm chính.
Biện chứng pháp biến chuyển của cơ sơ kinh tế và kiến trúc thượng tầng có khác
nhau: đối với cơ sở kinh tế là thủ tiêu (nếu có gọi là cải tạo thì căn bản vẫn
là thủ tiêu), nhưng lên thượng tầng 1 thì vừa thủ tiêu vừa cải tạo, đến thượng
tầng 2 thì chủ yếu là cải tạo. Hai lý do chính: một là càng lên trên càng dễ
lẫn lộn, khó phân biệt phản động và tiến bộ; vả lại còn một lý do quan trọng
khác nữa là: thủ tiêu tất cả là phi chính nghĩa, vì trong cái cũ cũng có di sản
tiến bộ."
Ở đây, điều
đáng chú ý trước nhất vẫn là lối lập luận nhập nhằng và hồ đồ của Trần-
Đức-Thảo nhằm xuyên tạc những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ
rằng từ hình thái xã hội này sang hình thái xã hội khác, kiến trúc thượng tầng
biến đổi về căn bản, nội dung và sự hoạt động của nó biến đổi về chất; đồng
thời cũng chỉ rõ rằng trong quá trình biến đổi căn bản đó, một số yếu tố cá
biệt của kiến trúc thượng tầng vẫn có tính kế thừa trên một mức độ nhất định,
nhưng kế thừa hoàn toàn thì không có nghĩa là "giữ lại" những cái mà
Trần-Đức-Thảo gọi một cách vũ đoán là "không thể bị thủ tiêu", mà là
tiếp thu một cách có phê phán và có cải tạo.
Đặt vấn đề
như Trần-Đức-Thảo tức là rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa xét lại. Còn cái
"quy luật" cho rằng từ cơ sở kinh tế lên đến cái mà Trần-Đức-Thảo gọi
là "thượng tầng 2" (!) thì "càng nặng về cải tạo, càng lấy cải
tạo làm chính", chúng ta có thể nói ngay đó chỉ là con đẻ sài mòn của âm
mưu đen tối nhằm chống chủ nghĩa xã hội và chống Đảng, kết hợp với phương pháp
tư tưởng siêu hình của y mà thôi. Ở đây, vấn đề không phải là "càng lên
trên thì càng dễ lẫn lộn, khó phân biệt phản động và tiến bộ", bởi vì nếu
như vậy thì làm sao biết được thật chắc chắn cái gì là "phản động" để
"cải tạo" (biện pháp y để ra là: "cải tạo là chính"), nhỡ
lại "cải tạo" cả những cái "tiến bộ" thì sao? Vấn đề cũng
không phải là "thủ tiêu" thì "phi chính nghĩa" bởi vì
"thủ tiêu" hay "cải tạo" cuối cùng cũng vẫn là tiêu diệt cơ
sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng của giai cấp bóc lột thống trị cũ, và xây
dựng cơ sở kinh tế mới, kiến trúc thượng tầng mới; nếu anh đứng trên lập trường
của giai cấp bóc lột thống trị cũ thì "thủ tiêu" hay "cải
tạo" cuối cùng cũng vẫn là tiêu diệt cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng
tầng của giai cấp bóc lột thống trị cũ, và xây dựng cơ sở kinh tế mới, kiến
trúc thượng tầng mới; nếu anh đứng trên lập trường của giai cấp bóc lột thống
trị cũ thì "thủ tiêu" hay "cải tạo"cũng vẫn là "phi
chính nghĩa" cả, tuyệt nhiên chẳng có cái gì là "chính nghĩa"
được. Vấn đề ở đây chính là Trần-Đức-Thảo không muốn cho chủ nghĩa Mác-Lênin
giành được địa vị thống trị trong lĩnh vực các hình thái ý thức, không muốn cho
sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện và tăng cường trong lĩnh vực đó (thật ra,
trong thâm tâm của Trần Đức Thảo và bè lũ, thì cũng không phải chỉ trong lĩnh
vực này mà thôi). Trái lại, Trần-Đức-Thảo muốn một cách "thiết tha"
và y đã từng cùng bè lũ phá hoại Nhân văn-Giai phẩm "say mê" hành
động hòng bắt buộc Đảng ta phải "cải tạo" chuyên chính vô sản và thừa
nhận nền dân chủ tư sản, phải "điều chỉnh" cái gọi là "quan hệ
sản xuất" (!) để mở đường cho cái gọi là "sức sản xuất dân tộc"
(!) tự do phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, phải "giữ lại và phát
triển" mọi "giá trị tinh thần" của giai cấp tư sản, không được
"thủ tiêu" văn hóa tư tưởng tư sản, phải "trả chuyên môn lại cho
ngành chuyên môn", "trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ"; tóm lại,
Trần-Đức-Thảo buộc chúng ta phải "cải tạo" chế độ miền Bắc! Lối lập
luận nhập nhằng của y khi giảng dạy chính là nhằm đưa sinh viên đến những kết
luận ấy.
Qua những ví
dụ nói trên, ta thấy dụng ý thâm độc của Trần-Đức-Thảo. Nội dung giảng dạy của
Trần-Đức-Thảo là nhằm gây nên những kết quả tai hại và nguy hiểm như lối
"tác động tinh thần" của cơ quan chiến tranh tâm lý của địch.
Tác dụng
xuyên tạc chủ nghĩa Mác như thế sẽ tác hại nghiêm trọng trong điều kiện nhận
thức của sinh viên bị giam giữ trong những ấn tượng mơ hồ, cảm tính do có sự
đứt đoạn giữa suy nghĩ với thực tế khách quan. Cho nên ba điểm nói trên trong
phương pháp giảng dạy của Trần-Đức-Thảo được hoàn thành bằng một điểm quan
trọng cuối cùng là: giảng và học triết học "mác xít", nhưng cố tránh
mọi sự liên hệ với thực tế một cách đúng đắn, đầy đủ, và có hệ thống. Bởi vì
một sự liên hệ chu đáo, có tính chất khoa học sẽ đặt người ta trở lại trước
những sự thật khách quan của lịch sử, của cách mạng, sẽ khiến cho mọi sự vu
cáo, xuyên tạc của bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm bị bóc trần. Đó là điều
Trần-Đức-Thảo rất sợ. Cho nên lối giảng dạy của Trần-Đức-Thảo là một lối giảng
dạy chỉ nói chuyện "đời xưa" để người ta đi đến "liên
tưởng" và "so sánh" một cách lệch lạc, nguy hiểm về "đời
nay", chứ ít đề cập đến những vấn đề thực tế cấp bách trước mắt một cách
rành mạch. Có lúc nào y nói đến "đời nay" thì chỉ là so sánh, liên hệ
"đá gà" qua một cách mỉa mai, riễu cợt.
II.
Phương pháp
giảng dạy bao gồm bốn điểm trên, đã được Trần-Đức-Thảo sử dụng thường xuyên
trong mọi vấn đề giảng dạy ở lớp. Nhưng nó đã được biểu hiện tập trung nhất
trong hai vấn đề lớn giảng dạy trong ba năm qua, hai vấn đề có tính chất lý
luận cơ bản và có ý nghĩa thực tiễn trong sinh hoạt và đấu tranh hiện nay:
Vấn
đề "hạt nhân duy lý";
Vấn
đề "cơ sở duy lý" của chủ nghĩa duy tâm.
Chúng ta sẽ
đi sâu vào phương pháp giảng dạy của Trần-Đức-Thảo lần lượt vượt qua hai vấn đề
lớn đó.
Vấn đề
"hạt nhân duy lý"
Trong việc
giảng dạy lịch sử tư tưởng, Trần-Đức-Thảo không đi quá Hê-ghen là cái
"tủ" học thuật tư sản của Trần-Đức-Thảo. Và đây cũng là nơi hoạt động
chính, mảnh đất quen thuộc trên đó Trần-Đức-Thảo đã dụng tâm ướm những nọc độc
tư tưởng với những hậu quả tai hại của nó vào trong nhiều sinh viên và một số
văn nghệ sĩ.
Triết học
Hê-ghen là một phần trong triết học cổ điển Đức mà Mác đã thông qua phê phán và
cải tạo mà rút lấy những yếu tố khoa học đó, tức tư tưởng biện chứng, để xây
dựng hoàn bị một bộ phận triết học của chủ nghĩa Mác. Nhưng mặc dù có những yếu
tố khoa học nói trên, triết học Hê-ghen vẫn là triết học duy tâm chủ nghĩa.
Trong tư tưởng triết học của Hê-ghen; còn bao hàm nhiều mâu thuẫn phản ánh điều
kiện lịch sử và giai cấp trong đó học thuyết được hình thành và phát triển,
những điều kiện ấy đã có tác dụng hạn chế đối với học thuyết của Hê-ghen. Điều
hạn chế đó đã để dấu vết trong "luận điểm nổi tiếng" của ông ta:
"Tất cả cái gì hiện thực là hợp lý và tất cả cái gì hợp lý là hiện
thực". Về thực chất, công thức trên là sự cô đúc tư tưởng biện chứng sâu
sắc của Hê-ghen, nhưng về hình thức, nó có chỗ mơ hồ trong cách diễn đạt,
Trần-Đức-Thảo đã lợi dụng khoét sâu vào chỗ mơ hồ đó: trong suốt cả một giáo
trình dài về Hê-ghen, cái công thức đơn giản và dễ nhớ ấy, cái "luận điểm
nổi tiếng" làm "cơ sở cho toàn bộ triết học lịch sử" của Hê-
ghen ấy vẫn không hề được Trần-Đức-Thảo nhắc đến. Trái lại, Trần-Đức-Thảo đã
đem thay thế vào đấy cái "hạt nhân duy lý" (thật ra phải gọi là
"hạt nhân hợp lý" mới đúng), mà Trần-Đức- Thảo đã phát triển một cách
cũng rất "say mê", theo tinh thần mà luận điểm của Hê-ghen đã từng bị
bọn thống trị ở Pơ-ruýt-xơ thời bấy giờ xuyên tạc đi: "Cái gì tồn tại là
hợp lý và cái gì hợp lý là tồn tại". Ở đây, cần mở một dấu ngoặc nói ngay
một điều: "hạt nhân hợp lý" là một thuật ngữ Mác đã dùng để chỉ những
yếu tố nhân chính tiến bộ trong học thuyết của Hê-ghen, tức là phần tư tưởng
biện chứng; nhưng qua Trần-Đức-Thảo, nó đã thâm nhập vào sinh viên với tinh
thần và nội dung xuyên tạc.
Để hiểu dụng
ý xuyên tạc thâm độc của Trần-Đức-Thảo, chúng ta thử đi phân tích luận điểm của
Hê-ghen. Như trên đã nói, ngay đương thời, luận điểm đó đã bị bọn thống trị
phản động lợi dụng và giải thích xuyên tạc theo ý chúng. Chữ "hiện
thực" thì chúng biến thành đồng nghĩa với chữ "tồn tại". Như
vậy, luận điểm trên đã được xem như là một sự "thần thánh hóa" chế độ
hiện hành ở vương quốc Pơ-ruýt-xơ, một sự "xác nhận triết học" cho
nền quân chủ chuyên chính của bọn chúng. Về vấn đề này, F. Ăng-ghen có viết:
"Không một luận điểm triết học nào có thể làm cho các chính phủ thiển cận
tỏ lòng biết ơn như thế, và làm cho người phái tự do không kém phần thiển cận,
giận dữ đến thế". Nhưng theo tinh thần của Hê-ghen, chữ "hiện
thực" phải được hiểu khác với cách biểu hiện của bọn vua Pơ-ruýt-xơ, cách
hiểu này cũng là cách hiểu mà Trần-Đức-Thảo muốn cho chúng ta hiểu. "Theo
Hê-ghen, không phải cái gì tồn tại cũng đều tự nhiên đã là hiện thực. Theo ông
thì thuộc tính hiện thực chỉ áp dụng cho cái gì đồng thời là tất yếu", nói
cách khác, chỉ là hiện thực cái gì đang tồn tại mà lại có tính chất tất yếu,
chứ không tồn tại cái nào là hiện thực.
Đến đây, ta
đã có thể giải đáp được câu hỏi: tại sao Trần-Đức-Thảo vốn vẫn tự hào là một
người "hiểu sâu và nắm vững Hê-ghen", lại không hề đả động đến cái
"luận điểm nổi tiếng" của Hê-ghen, trong suốt cả một giáo trình dài
dằng dặc? Tại sao trong lúc đó, y lại đi rất sâu vào cái "hạt nhân duy
lý", coi nó như một "chân lý thần thánh", một cái "chìa mở
trăm ổ khóa", một "công thức vạn năng"? Qua "hạt nhân duy
lý", Trần-Đức-Thảo càng ngày càng ấn sâu vào đầu óc sinh viên một công
thức xuyên tạc luận điểm Hê-ghen, là: "Cái gì tồn tại là duy lý và cái gì
duy lý là tồn tại". Từ sau giáo trình về Hê-ghen, cứ đến mỗi vấn đề mới,
cái "công thức vạn năng" ấy lại được đưa ra dùng như một "bảo
bối" để "giải thích" mọi hiện tượng của lịch sử tư tưởng: tôn
giáo, chủ nghĩa duy tâm, siêu hình học, v.v… Trần-Đức-Thảo đã láy đi láy lại
cái "hạt nhân duy lý" ấy như một điệp khúc. Cái "hạt nhân duy
lý" của Trần-Đức- Thảo thực tế là để bênh vực cho sự tồn tại của những cái
lỗi thời đã mất hết hay đang mất dần tính tất yếu của nó, bênh vực cho sự tồn
tại của những cái lạc hậu, phản động, những cái không có lý do tồn tại nữa. Cái
"hạt nhân duy lý" của Trần-Đức-Thảo đã trở thành một vũ khí ngụy
biện. Nó đã làm cho nhiều sinh viên, trong một thời gian khá dài, không phân
biệt được tiến bộ với lạc hậu, cách mạng với phản động, đúng với sai, hay với
dở, ví như Trần-Đức-Thảo đã từng ngụy biện, cái gì "xét cho cùng cũng có
cơ sở duy lý của nó cả" (!). Thấm nhuần "triết học" của
Trần-Đức-Thảo, một số sinh viên đã "can ngăn" anh em "đừng quá
lời đối với Ngô-Đình-Diệm". Họ nói: "Đừng chửi nó thậm tệ, với những
danh từ chó má … như thế. Dù sao, trong nhiều cái xấu nó cũng có cái tốt của
nó, nếu không thì sao còn tồn tại được?" Một số sinh viên khác thì đặt vấn
đề: "Ngô-Đình-Diệm tồn tại cũng có cơ sở duy lý của nó chăng?"
"Hạt nhân duy lý" của Trần-Đức-Thảo là một trong những nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp của việc một vài sinh viên đi Nam: họ đều là những kẻ
đã từng hâm mộ "hạt nhân duy lý" của y.
Vấn đề
"cơ sở duy lý" của chủ nghĩa duy tâm
Vận dụng cái
bảo bối vạn năng "hạt nhân duy lý", trong suốt cả giáo trình về lịch
sử tư tưởng, Trần-Đức-Thảo khi thì trực tiếp và lộ liễu, khi thì gián tiếp và
úp mở, đã đề cao chủ nghĩa duy tâm với cái "cơ sở duy lý" của nó.
Theo Trần-Đức-Thảo, chủ nghĩa duy tâm bất kỳ là của môn phái nào, bất kỳ là
thời cổ hay thời nay, sở dĩ tồn tại và phát triển được là vì nó có phần nội
dung chính, "thực chất là nội dung nhân dân, là yếu tố sản xuất tiến bộ,
yếu tố khoa học", v.v… Phần không hợp lý của nó chỉ là phần hình thức, do
sự "tha hóa" của giai cấp thống trị. Mặt khác, chủ nghĩa duy vật sở
dĩ phát triển được cũng là dựa và tiếp nối trên những bước phát triển của chủ
nghĩa duy tâm cũng "bao gồm những yếu tố bổ sung cho chủ nghĩa duy
vật".
Những luận
điệu đó của Trần-Đức-Thảo cũng là một cốt một đồng so với những luận điệu của
chủ nghĩa xét lại quốc tế trên vấn đề chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật.
Những luận điệu đó đưa đến chỗ phủ nhận một nguyên lý của triết học Mác-Lênin
là giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm có sự đối lập căn bản. Chủ nghĩa
Mác-Lênin thừa nhận rằng chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm có nhiều liên
hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng đồng thời cũng chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy
vật đối lập tuyệt đối với chủ nghĩa duy tâm, và chủ nghĩa duy vật là tuyệt đối
đúng đắn, còn chủ nghĩa duy tâm là tuyệt đối sai lầm. Không thể có vấn đề "cơ
sở duy lý" của chủ nghĩa duy tâm, càng không thể có vấn đề chủ nghĩa duy
tâm "bổ sung" cho chủ nghĩa duy vật. Bởi vì chủ nghĩa duy vật, bất kỳ
là hệ thống nào, quy đến bản chất, cũng thừa nhận vật chất là cái thứ nhất, ý
thức là cái thứ hai; trái lại, chủ nghĩa duy tâm, bất kỳ là môn phái nào, quy
đến bản chất, cũng coi ý thức là cái thứ nhất, vật chất là cái thứ hai. Ở đây,
cần nói rõ một điểm quan trọng: trong hệ thống tư tưởng (chứ không phải là chủ
nghĩa duy tâm) của một số môn phái triết học hay nhà triết học duy tâm chủ
nghĩa, bên cạnh những luận điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, có một số điểm
mà chủ nghĩa duy vật có thể tiếp thu, có thể kế thừa (và trong thực tế lịch sử
phát triển của chủ nghĩa duy vật, đã từng có tình trạng đó); nhưng sự tiếp thu
và kế thừa đó có điều kiện, nghĩa là "thông qua phê phán và cải tạo",
khiến cho những điểm ấy mất hẳn nội dung duy tâm chủ nghĩa của hệ thống triết
học cũ. Đương nhiên, sự tiếp thu và kế thừa như vậy hoàn toàn không thể coi là
chủ nghĩa duy tâm "bổ sung" cho chủ nghĩa duy vật được.
Những luận
điệu xuyên tạc của Trần-Đức-Thảo về chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đã
gây nên nhiều nhận thức lộn xộn và nguy hiểm. Nếu có ai hỏi sinh viên về vấn đề
này, thì một số không nhỏ sẽ không ngần ngại trả lời: "chủ nghĩa duy tâm
không hoàn toàn sai như chúng tôi vẫn tưởng. Nó tồn tại được và phát triển
được, tức là có cơ sở duy lý! Và chính chủ nghĩa duy vật sở dĩ được hoàn bị
cũng là do được sự bổ sung của chủ nghĩa duy tâm. Kết luận: không nên có thái
độ bài bác triệt để đối với chủ nghĩa duy tâm!" Ở đây, chúng ta thấy hiện
nguyên hình nhà "học giả" Trần-Đức-Thảo đang pha chế "chủ nghĩa
sinh tồn" và "hiện tượng học" là những thứ triết học duy tâm chủ
nghĩa cực kỳ phản động của giai cấp tư sản đế quốc chủ nghĩa, với chủ nghĩa duy
vật của Mác!
*
Tính chất
nguy hiểm trong sự hoạt động của Trần-Đức-Thảo về mặt giảng dạy không phải chỉ
là do y đã tung ra luận điệu này hay luận điệu kia, mà còn là do phương pháp
giảng dạy rất giảo hoạt của y nữa. Phương pháp này, qua một quá trình "tác
động" thường xuyên, đã tiêm vào nhiều sinh viên những nọc độc tư tưởng tai
hại.
Những luận
điểm phản động và phương pháp giảng dạy "tác động tinh thần" của
Trần-Đức-Thảo ở trường đại học, cộng với những hành động, luận điệu của y ở
ngoài xã hội, chứng tỏ rõ ràng đó không phải là kết quả của cái "cảm
tính" phản động của y. Trần-Đức-Thảo không nên lừa dối nhân dân một lần
nữa bằng cái thuyết (?) "mâu thuẫn giữa cảm tính và lý tính", mà cần
phải triệt để đầu hàng cách mạng, thành khẩn cúi đầu nhận tội trước nhân dân.
Đó là con đường sống duy nhất của y.
Nhưng đối
với chúng ta, vấn đề quan trọng hơn là phải quét sạch những nọc độc của
Trần-Đức-Thảo trong việc giảng dạy triết học ở trường đại học. Muốn thế, một
mặt chúng ta cần phải tiếp tục phê phán trong trường đại học những luận điểm
triết học mà Trần-Đức-Thảo đã gieo rắc trong ba năm nay, vạch trần bản chất
phản động của những luận điểm ấy, đồng thời tiến hành giáo dục chính trị và
giáo dục lao động một cách sâu sắc và sinh động cho sinh viên. Mặt khác, cần
rút trong cuộc đấu tranh vừa qua ở trường đại học những bài học kinh nghiệm cần
thiết để cải tiến công tác giảng dạy chủ nghĩa Mác-Lênin trong nhà trường.
Chủ nghĩa
Mác-Lênin là một học thuyết vĩ đại, không giống bất cứ một học thuyết nào trước
đó. Học thuyết Mác-Lênin không chỉ để giải thích thế giới mà còn là một thứ vũ
khí để cải tạo thế giới. Nó kế thừa mọi tinh hoa trong vốn hiểu biết trước của
loài người, đồng thời nó là kết tinh của kinh nghiệm đấu tranh thực tiễn của
phong trào công nhân thế giới. Nó mang trong bản chất tính chiến đấu sắc bén
của giai cấp vô sản, và sức sống dồi dào của quần chúng cách mạng. Cho nên,
không đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, không mang trong người nhiệt
tình cách mạng và ý thức chiến đấu cải tạo xã hội, không xuất phát từ lợi ích
căn bản của quần chúng nhân dân, thì không thể nào học tập được chủ nghĩa
Mác-Lênin, càng không thể nào giảng dạy được chủ nghĩa Mác-Lênin.
Chủ nghĩa
Mác-Lênin là một lý luận sáng tạo, nó xây dựng từ thực tế cách mạng và trở lại
chỉ đạo thực tế cách mạng. Qua thực tế, nó càng được bổ sung và phát triển.
Thực tế và lý luận phải gắn liền với nhau. Tách rời lý luận với thực tế là rút
mất sức sống của lý luận Mác-Lênin. Vì vậy, muốn bảo đảm cho việc giảng dạy chủ
nghĩa Mác-Lênin ở các trường đại học đạt được kết quả tốt, các cơ quan có trách
nhiệm cần nghĩ ra nhiều biện pháp thích hợp giúp sinh viên năng tiếp xúc với
thực tế, năng liên hệ lý luận với thực tế, thông qua học tập lý luận, tìm hiểu
thực tế mà nâng cao trình độ tư tưởng của mình, dần dần biến mình thành người
trí thức trung thành với lợi ích của chủ nghĩa xã hội.
(Nguồn: Tạp chí Học Tập 6/1958. Phiên bản điện tử: talawas.org)
Vào năm 1958 không biết có mấy anh lớp E được chứng kiến cảnh này nhỉ
Trả lờiXóaVấn đề này chắc chỉ các anh lớp E mới đọc được thôi chứ bọn em chỉ nghe nói đến triết học đã ngại rồi chứ đừng nói đến đọc và suy ngẫm.
Trả lờiXóaPhải 30-40 năm sau người ta mới nhận ra tính đúng đắn trong những luận điểm triết học Trần Đức Thảo. Khắc Thành chắc là bút danh của người nào đó là Khắc tinh của thành công nên mới phản ứng với TĐT như thế (LPT)
Trả lờiXóaDưới con mắt của những kẻ giáo điều thì mọi sự vận dụng và suy nghĩ sáng tạo dù có phù hợp với thực tế cũng là phản động, là đi ngược với những điều sách đã nói. Những kẻ đó chẳng bao giờ biết phân tích xem sách nói đúng hay nói sai, cho dù chính mác đã nói "những gì hôm nay là đúng, là phù hợp thì ngày mai có thể là sai, là lạc hậu". Cứ bám lấy những lý luận cách đây trăm năm để nói thực tế hôm nay đi sai với lý luận đó thì làm sao tìm ra chân lý được!
Trả lờiXóa