Viên Như
NGÔN HOÀI
Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Tạm dịch :
Nỗi lòng
Chọn được đất thiêng để ở đời,
Tình quê vui thú suốt ngày chơi.
Đúng thời lên thẳng non cao vút,
Hét một tiếng vang lạnh thấu trời.
(Viên
Như)
Câu 1
- Trạch đắc long xà địa khả cư,
Bài thơ này
trước đây đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bình giảng như Đặng
Thai Mai đã viết "Nhà thơ vui mừng nhìn địa vật qua những rặng núi
hình rồng hình rắn uốn quanh ngôi nhà mình. Đó là lối nhìn của các thầy địa
lý", có thể từ nhận xét của một trong những cây đại thụ trong làng
nghiên cứu văn học nước ta như vậy, lại thêm vào hình ảnh mà lịch sử cung cấp,
nên hầu như ai cũng nghĩ bài thơ phản ảnh cái nhìn phong thủy, có thể vì trong
suy nghĩ của nhiều người thầy tu Phật giáo thường gắn liền với những kiến thức
về phong thủy, thậm chí gần như mê tín dị đoan, nên khi đọc bài thơ của một tác
giả là thiền sư, người ta dễ liên tưởng đến vấn đề này, nhất là ở câu một tác
giả đã viết "Trạch đắc long xà địa khả cư". Ngay câu mở đầu người đọc
đã bắt gặp ngay hình ảnh rồng rắn thì dĩ nhiên người đọc rất dễ nghĩ rằng đất
rồng rắn là một thế đất tốt theo thầy địa lý (Đất rồng rắn dĩ nhiên là một tiêu
chí phong thủy, nhưng không phải là yếu tố dị đoan, thầy địa lý cũng không phải
là xấu như ngày nay một số người thường nghĩ). Như vậy ta đi vào cõi thơ
của Không Lộ bằng cái nhìn phong thủy tiêu cực, thì những ý tưởng tiếp theo
trong bài thơ cũng phải theo chiều hướng này, kết quả là qua bao cuộc mổ xẻ,
bài thơ cũng chưa được giải thích một cách thống nhất và thấu đáo từ tên bài
thơ cho đến nội dung , nên bài thơ vẫn cứ bao trùm một màu huyền bí mà có người
còn gọi là "siêu thơ". Do đó chúng cần tìm hiểu xem " Long xà
địa là gì?" Có phải là một thuật ngữ phong thủy hay không? Thuật ngữ này
đã xử dụng ở đâu? Với nghĩa nào?
-Về phong thủy
thì trong 92 thuật ngữ phong thủy không thấy có thuật ngữ long xà địa.
Vậy chúng ta tìm hiểu theo hướng khác.
-Trong
Kinh Dịch viết rằng: "Long xà chi chập, dĩ tồn thân dã" dịch
nghĩa "rồng rắn mà ẩn nấp cốt để giữ mình vậy".
-Truyện
Dương Hùng trong Hán Thư cũng nói: "Quân tử đắc thời tắc đại
hành, bất đắc thời tắc long xà" dịch nghĩa "Người
quân tử mà gặp thời thì làm việc lớn, không gặp thời thì ở ẩn".
Như thế là
đã rõ, thuật ngữ "long xà" có nghĩa là ở ẩn, ẩn ở đây không phải là
tìm vào chốn xa xôi, hẻo lánh, mà là hòa mình vào cuộc đời của người quân tử
khi chưa đúng thời. Người quân tử ở đây là người có khả năng giúp nước, giúp
đời. Khi quốc gia hữu sự thì người quân tử phải dấn thân mà bảo vệ tổ quốc, khi
hòa bình thì họ cũng như bao công dân khác hòa mình vào xã hội, âm thầm xây
dựng quê hương (rồng thành rắn hay rồng đất). Như thế câu này có nghĩa là: Chọn
được miếng đất tốt có thể ở được.
" trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân" sau mới
nói địa thế " rồng sinh, hổ ở".
Như tiểu
sử của ông cho biết, ông sinh năm 1016, chỉ sáu năm sau khi Lý Thái Tổ dời đô
từ Hoa Lư về Thăng Long, ông đã lớn lên cùng với cái hào khí của một đất nước
trong một vận hội mới, một thời kỳ mà chưa một triều đại nào trước đó làm được:
đó là nền độc lập của đất nước. Từ nền độc lập này, nước Việt đã phát triển
trên mọi mặt, nhất là đối với nhân dân, những người luôn phải chịu đau khổ
trước nhất khi không có hòa bình, độc lập. Mọi hoài bão đó được gởi vào hai chữ
"Thăng Long". "Thăng Long" là "rồng dậy, rồng
lên". Như thế có nghĩa là rồng này không phải ở trên trời mà từ mặt đất,
từ lòng người, là ý chí độc lập, tự cường, là khát vọng hòa bình, hạnh phúc. Tự
cái việc dùng từ ‘Thăng" đủ cho thấy Lý Thái Tổ đã nhận thức về sức mạnh
của nhân dân như thế nào. "Thăng Long" cũng chỉ cho bản thân Lý Thái
Tổ mà cũng là tiêu biểu cho nhân dân. "Thăng" là "vươn từ dưới
lên", như "thăng tiến" "chuyển từ trạng thái sang trạng
thái khác", như "thăng hoa". Điều đó cho thấy yếu tố phong thủy
chỉ là thứ yếu trong quyết định này. Điều này đã thể hiện rõ trong Chiếu dời
đô, trước là
Sau những
nhiễu nhương của triều đại trước đó, chính Thiền sư Vạn Hạnh đã chủ động đề
nghị Lý Công Uẩn, hãy vì quốc gia mà nắm lấy triều chính và chắc chắn rằng
những công việc triều chính sau đó phải có sự tham gia của Vạn Hạnh, tất nhiên
quyết định dời đô về Đại La không nằm ngoài dự tính của Vạn Hạnh. Ngày nay, khi
chúng ta đọc vào lịch sử, chỉ thấy ghi lại chiếu chỉ dời đô ngắn ngủi của Lý
Thái Tổ, nhưng chúng ta phải hiểu rằng để đi đến một quyết định như vậy, triều
đình nhà Lý, rút kinh nghiệm từ những sự kiện xảy ra trước đó, đã phải bàn bạc,
cân nhắc trên mọi lãnh vực, để sao cho tại kinh đô mới phải củng cố được mọi
mặt, từ chính trị, quân sự, văn hóa, kinh tế. " Xem khắp nước
Việt đó là nơi thắng địa, thực là chổ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là
nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời".(Chiếu dời đô). Bởi vì những
gì đã xảy ra trước đó nhắc nhở cho Lý Thái Tổ biết rằng: việc thế lực phương
bắc xâm chiếm nước ta không phải là quyết định nhất thời, mà là một hiện thực
lâu dài. Chính vì vậy cần phải chọn một nơi có thể đáp ứng được những mục tiêu
đó, nơi ấy là một cuộc đất có thế, vừa tiến đánh sớm nhất khi quân xâm lược
tiến vào nước ta, lui về phòng thủ khi cần thiết bằng một hậu phương vững mạnh,
cả trên hai phương diện thủy và bộ, đặc biệt ông đã thành công trong việc dời
đô khi đã xây dựng một thế trận lòng dân vô cùng vững chãi. Chắc chắn đã có
nhiều phương án được đưa ra, và cuối cùng đi đến quyết định chọn (trạch đắc)
Đại La rồi đổi thành Thăng Long (rồng đất) (Long xà địa - rồng đất) để định đô
(khả cư). Như đã nói ở trên, Không Lộ sinh năm 1016, như vậy ông đã lớn lên
cùng với cùng với âm vang từ Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ, chiếu chỉ này chắc
chắn phải được thường xuyên nhắc nhở trong triều đại nhà Lý sau đó, (hay như
cách ta nói ngày nay là "quán triệt"). Mấy mươi năm sau ông trở thành
quốc sư thì chắc chắn ông phải nằm lòng chiếu chỉ này. Tất nhiên ông hiểu và
thời đó có lẽ ai cũng hiểu "thăng long" là "rồng đất", là
sức mạnh của nhân dân.
Câu 2
- Dã tình chung nhật lạc vô dư.
"Dã"
là thôn quê, "tình" là tình cảm, tâm tư, ở đây là đời sống tinh thần
nơi thôn dã. Nhưng tại sao lại là đời sống tinh thần nơi chốn quê mà không phải
là thành thị? Đây chính là cái tài của tác giả. Thông thường trong một quốc
gia, thôn quê là nơi ít được hưởng thụ những thành quả của xã hội nhất, thế mà
ở đây người dân nơi thôn quê lại được hưởng trọn vẹn thành quả của xã hội trên
mọi mặt thì những thành phần khác trong xã hội phải ngang bằng hoặc hơn. Như ta
nói: "Ở Việt Nam,
người nghèo nhất cũng có một chiếc xe hơi" thì cũng có nghĩa là những
thành phần còn lại phải có một hoặc hơn một chiếc xe hơi. Đây là một nghệ thuật
dùng từ mà ngày nay ta gọi là biện pháp tu từ "dùng cái thấp nhất để chỉ
cái cao nhất". Rõ ràng tác giả dùng từ rất đắt.
Từ
"vô dư" lấy từ nhà Phật, nghĩa là không còn gì, "lạc vô dư"
có nghĩa là vui không sót, vui không thiếu lãnh vực nào, không còn gì không
được vui.
Như ta
biết, lịch sử nước ta được viết bằng máu, bằng sự hy sinh của biết bao thế hệ,
không một gia đình, dòng họ nào ở nước Việt mà không có người đã hy sinh nơi
chiến trận, một đất nước hết bị phương bắc xâm lăng thì phía nam quấy phá,
trong một quốc gia như vậy thì chiến tranh luôn là nỗi lo, không những của
người nắm giữ vận mệnh của quốc gia, dân tộc, mà còn là của nhân dân. Bởi vì
chiến tranh đồng nghĩa đau thương, mất mát và đói khổ, không phải chỉ đau
thương mất mát trên chiến trường, mà nỗi đau đó kéo dài theo những gia đình khi
con mất cha, vợ mất chồng, nhà tan, cửa nát.
Thỉnh thoảng
cũng có hòa bình,thì gặp phải cảnh hôn quân, bạo chúa, thế là có hòa bình nhưng
chưa phải thái bình. Chính vì vậy khát vọng một cuộc sống trong một quốc gia
độc lập, thái bình, thịnh trị, trên thì có vua anh minh, dưới thì các quan liêm
khiết, là khát vọng vô cùng to lớn của người dân Việt trong mọi thời đại. Việc
đời đô từ Hoa Lư về Thăng Long và những năm tháng thái bình sau đó là minh
chứng cho thấy sự nhìn xa trông rộng của Lý Thái Tổ dưới sự cố vấn của Quốc sư
Vạn Hạnh, nó cho thấy sự đồng lòng từ vua quan cho đến thứ dân, quyết định đó
đã làm thay da đổi thịt đất nước trên mọi mặt. Quốc gia thì thái bình thịnh
trị, luật pháp thì khoan hồng mà nghiêm minh, văn hóa thì thăng hoa rực rõ,
nhân dân thì ấm no hạnh phúc. Do vậy dù ở chốn thôn dã mà vẫn hưởng thụ được
thành quả của thái bình, không phải chỉ là cơm ăn, áo mặc mà trên tất cả các
lãnh vực khác của cuộc sống. Đó là niềm vui trọn vẹn. Thế mới gọi là
"chung nhật lạc vô dư". Một quốc gia mà nơi thôn quê, dân dã lại được
hưởng trọn vẹn tất cả những thành quả của xã hội thì biết rằng xã hội đó tiến
bộ thế nào. Không Lộ cũng lớn lên và tận hưởng niềm vui chung đó, ông đã chứng
kiến sự phát triển của quê hương trên mọi mặt và hương vị của thái bình đã thấm
vào tâm hồn ông. Với tất cả những gì mà ông trải nghiệm, ông đã gởi gắm vào câu
này.
Câu 3
- Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
("Hữu
thời"- chữ "thời" ở đây là chữ "thời" trong Kinh
dịch có nghĩa là thời cơ, cơ hội, vận hội. Vì ở câu một ông đã dùng "long
xà địa"cũng trong Kinh dịch, hơn nữa nếu ta hiểu " hữu thời" là
có khi hay thỉnh thoảng thì yếu quá so với khí lực của bài thơ, và đồng thời
không liên kết được với ý sau của câu thơ.
"Trực
thướng" nghĩa đen là lên thẳng, nghĩa bóng là ngay tức khắc.
"Cô phong
đỉnh" là đỉnh núi chon von, núi đứng một mình, nghĩa bóng là chủ quyền
quốc gia).
Vui là
thế, thanh bình là thế, niềm vui lớn quá, cứ tưởng chừng như nhân
dân nước Việt giờ đây quên hết những đau thương mất mát khi ngoại bang
xâm lăng nước họ rồi. Không đâu! Người dân Việt tuy được vui hưởng thái bình,
nhưng họ nhận thức được rằng, trong mỗi bát cơm ăn, một đêm yên giấc thanh bình
là kết quả của sự độc lập, thái bình. Những đau thương mất mát của cha ông đã
kết tinh vào trong tâm thức họ ý thức chủ quyền của quốc gia, tuy không bộc lộ
ra ngoài, nhưng dòng tâm thức đó vẫn luân lưu trong mỗi người dân Việt. Hơn ai
hết, họ biết rằng làm sao hạnh phúc được khi đất nước bị mất chủ quyền, bị
ngoại bang xâm lăng dày xéo. Tuy ngày ngày vui nơi thôn dã, làm rắn sống giữa
đồng, nhưng khi quốc gia hữu sự, lập tức rắn hóa thành rồng, đứng lên chung
sức, chung lòng bảo vệ sơn hà xã tắc. Không Lộ là quốc sư, mà tiêu chí để vua
quan triều Lý phong làm quốc sư thì đâu phải chỉ biết xem ngày lành, tháng tốt,
đất thịnh, hướng thông, mà phải là con người có tầm nhìn đối với quốc gia đại
sự, để tham mưu, cố vấn cho triều đình trong việc trị quốc an dân. Với tư cách
là một thiền sư thì ông cố vấn cho triều đình lãnh vực nào ngoài văn hóa - tư
tưởng, mà văn hóa cao nhất và cũng là nhiệm vụ thiêng liêng nhất trong một quốc
gia đó là lòng yêu nước. Do đó chắc chắn rằng dưới sự cố vấn của ông, triều
đình luôn nhắc nhở, giáo dục người dân về lòng yêu nước, bảo vệ non sông. Từ
tầm nhìn vĩ mô ông nhận biết rằng tuy vui trong thanh bình như thế nhưng mỗi
người Việt luôn có lòng tự hào dân tộc.Do vậy khi có bất cứ thế lực nào xâm
phạm quốc gia, thì đó chính là lúc (hữu thời) và ngay tức khắc (trực thướng) họ
đứng trên lập trường chủ quyền quốc gia (cô phong đỉnh) để đối mặt với quân
thù. Hình ảnh một người leo thẳng lên đỉnh núi cao chót vót mà theo chữ Hán
trong bài thơ gọi là "cô phong đỉnh" là một hình tượng độc lập, hùng
vĩ và rất đẹp. Cô là trơ trọi, không có gì chung quanh, có nghĩa là chẳng có
ngọn núi nào khả dĩ so sánh được, hình ảnh ngọn núi cao vút đứng một mình thẳng
hướng lên trời cao là hình ảnh vô cùng mạnh mẽ, hùng tráng nhưng cô độc. Ngọn
núi cao là vậy, hùng vĩ là vậy, thì làm sao thỉnh thoảng lại leo thẳng lên đỉnh
núi được, ai mà leo cho nỗi. Do vậy đây là ngọn núi tâm linh, văn hóa, ngọn núi
này mỗi người dân Việt ai cũng có trong lòng, chính vì vậy, khi cần thiết là
ngay tức khắc họ có mặt ở non cao, nơi ngày ngày quận tụ hồn thiêng sông
núi. Đây cũng chính là hình ảnh của thiền, hình ảnh bất khả tư nghị, bất
khả tỷ giảo, cũng như đỉnh cao của trí tuệ giác ngộ, cái trí tuệ mà kẻ giác ngộ
không thể chia sẻ với ai, không thể so sánh với cái gì, cũng như trong một quốc
gia chủ quyền là cái duy nhất không có gì có thể so sánh và đánh đổi
được.
Câu 4
- Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Như vậy
trong lòng mỗi người dân Việt luôn có một đỉnh núi, một ý thức về chủ quyền
quốc gia, ý thức đó tuôn chảy từ đời này sang đời khác. Nhưng vấn đề là những
kẻ xâm lược luôn tìm mọi cách để phủ nhận điều đó. Chính vì vậy chủ quyền này
cần phải được tuyên bố, nhất là khi chủ quyền của nước nhà bị xâm phạm. Từ ý
thức chủ quyền đó, ở trên đỉnh núi cao đó, ngay tức khắc họ long trọng tuyên bố
nước Việt là một nước có chủ quyền. Ở đây tác giả dùng từ thét, mà thét dài
(trường khiếu), nó cho ta thấy sự dõng dạc, cương quyết và hùng tráng. Khi ta
quá đau khổ ta cũng thét, khi ta quá hạnh phúc ta cũng thét, thét là một ngôn
ngữ ở đỉnh cao hay có thể nói là siêu ngôn ngữ, nó được dùng để diễn tả những
gì mà ngôn ngữ có nói cũng không thể nói hết được, mà nền độc lập, chủ quyền
của quốc gia có được là từ máu xương của bao thế hệ xây dựng nên, thì bút mực,
lời nói nào diễn tả cho hết. Trong đạo thiền, tiếng thét cũng là ngôn ngữ của
người giác ngộ, chỉ có tiếng thét mới làm cho kinh hãi cả ba cõi, thấu khắp cả
tam thiên, chứ cái ngôn ngữ đối đãi thì làm sao mà diễn tả được cái sâu thẳm
của đạo được, thế mới gọi là nói mà không nói, hay ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành
xứ diệt vậy. Còn đối với một đất nước thì chỉ có tiếng thét, không những thét mà
còn thét dài và chỉ thét dài một tiếng (nhất thanh) mới có thể nói lên được cái
ý thức chủ quyền, độc lập là to lớn đến chừng nào. Nhưng sao lại thét dài một
tiếng, vâng! một tiếng thôi, hàng triệu triệu người con Việt dị khẩu đồng âm
(khác miệng giống lời) cùng thét dài lên một tiếng, một lập trường, một ý thức
"độc lập" có như thế mới làm cho những kẻ xâm lược rởn tóc gáy, lạnh
cả người, cả thế giới phải im lặng lắng nghe (hàn thái hư).
Không phải
ngẫu nhiên mà người đời sau đặt tên bài thơ này là "Ngôn hoài"
"lời hoài bão" Hoài bão của một con người, một công dân, một dân
tộc.Hoài bão đó là gì nếu không phải là một quốc gia hưng thịnh, thiên hạ thái
bình, dựa trên một nền độc lập, tự cường, và sẵn sàng bảo vệ nền độc lập ấy
bằng bất cứ giá nào nếu như có bất cứ ai, bất cứ thế lực nào xâm phạm.
(Theo Blog viennhu)
Các Thầy cao đạo quá, người bình thường khó có thể hiểu hết được.
Trả lờiXóaNhưng qua cách giải thích của Viên Như thì người bình thường như chúng ta có thể hiểu rõ hơn tư tưởng lớn của Không Lộ qua bài thơ ngắn này. Ngày trước tôi có đọc một số bài bình về bài thơ này đa số đều nói về phong thuỷ, thế đất rồng rắn rồi bốc thơm lên.
XóaTrong Kinh Dịch viết rằng: "Long xà chi chập, dĩ tồn thân dã" dịch nghĩa "rồng rắn mà ẩn nấp cốt để giữ mình vậy". Các bậc tiền bối như Hải Thượng Lãn Ông, Chu Văn An cũng đã từng ẩn dận. Những bậc cao nhân thường ẩn mình sau những ánh hào quang thực tại. Thật đáng phải nể trọng hơn...
Xóa(HT).