Nhân ngày giỗ cố nhà thơ Phạm Tiến Duật (4/12), chúng tôi
xin đăng lại câu chuyện của hoạ sỹ Ba Tỉnh kể một giai thoại về ông, một chuyện
cười ra nước mắt… (BBT)
Hồi mới nhập ngũ, Phạm Tiến Duật được giao nhiệm vụ làm giáo viên văn hóa ở trung đoàn 225. Ngày ấy, theo “quân lệnh”, cứ khoảng 9 giờ tối khi có tiếng kẻng là lính trong đơn vị phải nhắm mắt ngủ, trừ trực ban. Tối nọ, chính trị viên đại đội đi tuần tra bắt “quả tang” Phạm Tiến Duật đang che ánh sáng đèn để đọc vụng cuốn Kinh Thánh dày cộp. Sự việc tưởng chừng đơn giản nhưng Duật bị “đánh” lên bờ xuống ruộng, nghĩ lại mà rùng mình.
Rồi Trung đoàn 225 tách ra thành hai binh trạm vận tải,
tương đương cấp tiểu đoàn, binh trạm 10 ở Miền Bắc, còn binh trạm 12 hoạt động
ở địa bàn Quảng Bình, theo đường lên Cổng Trời sang Lào. Lúc này Quảng Bình,
Vĩnh Linh đang bị đánh dữ dội, nhưng Phạm Tiến Duật đã dũng cảm xung phong vào
công tác nơi tuyến lửa trong sự ngưỡng mộ của đồng đội.
Năm 1969, Binh trạm 12 sáp nhập vào Đoàn 559, do tướng Đồng
Sĩ Nguyên, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần làm Tư lệnh. Ông Đồng Sĩ Nguyên rất
thích thơ Phạm Tiến Duật, nên thường tán thưởng thay cho lời khen: “Thế mới là
thơ Trường Sơn. Rất tình cảm, rất khí phách…”. Từ trong bom đạn, rất nhiều bài
thơ nổi tiếng của Phạm Tiến Duật ra đời và năm 1970 anh đã đoạt giải nhất cuộc
thi thơ của tuần báo Văn Nghệ; Cùng năm đó anh vinh dự trở thành Hội viên Hội
Nhà Văn Việt Nam.
Tài năng của Phạm Tiến Duật được Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đặc biệt quan tâm. Mặc dù nơi tiền tuyến vô cùng khó khăn gian khổ, nhưng đơn
vị đã làm cho anh một “căn nhà riêng” bằng gỗ, có bàn viết được mắc điện, cung
cấp thuốc lá, thịt hộp và các nhu yếu phẩm khác đủ phục vụ cho nhà thơ thỏa sức
sáng tác… Phạm Tiến Duật được Đoàn 559 chăm sóc như một “ông vua con”… Tên tuổi
Phạm Tiến Duật cùng với những bài thơ Trường Sơn của anh đã trở thành nét son
của thời đại, được tụng ca là “con chim Lửa của Trường Sơn huyền thoại”, “nhà
thơ lớn nhất thời chống Mỹ”, “cây săng lẻ của rừng già” và thơ anh từng được
đánh giá là “có sức mạnh của một sư đoàn”…
Cuối năm 1973, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên trực tiếp giao nhiệm
vụ cho Phạm Tiến Duật ra Miền Bắc làm công tác sưu tầm tài liệu để chuẩn bị
soạn thảo Văn bia Trường Sơn… vì vậy, Phạm Tiến Duật đã tận mắt chứng kiến hậu
quả tàn khốc của chiến tranh hủy diệt do không lực Hoa Kỳ gây ra trên hậu
phương lớn Xã hội chủ nghĩa, nhằm biến nơi đây trở về “thời đồ đá”. Anh xúc cảm
làm bài thơ mang tên “Viết về số 0″, thường được gọi là “Vòng trắng” đăng trên
Tạp chí Thanh Niên như một nén nhang viếng những người dân vô tội đã tử nạn vì
bom B52 triệt phá phố Khâm Thiên, Hà Nội. Số báo dự kiến đăng tháng 12 năm 1973
nhưng bị lùi lại thành số Tháng Giêng năm 1974. Bài thơ tự do, vỏn vẹn chỉ có 8
dòng, không ngờ là một “tai họa” chứ không phải là “tai nạn nghề nghiệp” giáng
xuống đầu nhà thơ, chiến sỹ Phạm Tiến Duật, bài như sau:
“Khói bom lên trời hiện lên những vòng đen
Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng
Tôi với bạn tôi đi trong yên lặng
Cái yên lặng lạ kỳ đêm sau chiến tranh
Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng
Tôi với bạn tôi đi trong yên lặng
Cái yên lặng lạ kỳ đêm sau chiến tranh
Có mất mát nào lớn bằng cái chết
Vòng trắng trên đầu thành một số không
Nhưng tôi biết ở trong vòng trắng ấy
Là cái đầu bốc lửa ở bên trong”
Ngay sau khi bài thơ “Viết về số 0” của Phạm Tiến Duật được
in trên Tạp chí Thanh nhiên, thì lập tức Tạp chí Học tập số 9 năm 1974 đã phê
phán gay gắt rằng: “Giữa lúc cần nói to lên niềm sung sướng tự hào về cái được
vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì nhà thơ lại chỉ thấy
cái mất, chỉ thấy tang tóc đau thương và than thở…”. Có lẽ vì vậy mà bài thơ
“Viết về số 0” không được in trong bất kỳ tập thơ nào của Phạm Tiến Duật sau
này. Cho đến trước khi anh qua đời, Nhà văn Nguyễn Khắc Phục mới đưa vào tuyển
tập Phạm Tiến Duật, bài “Viết về số 0” do nhà thơ Trần Nhương sưu tầm và giới
thiệu. Tuyển tập Phạm Tiến Duật in xong ngày 17-11-2007, và chỉ chưa đầy 20
ngày sau (17/11/2007) nhà thơ Phạm Tiến Duật qua đời, may mắn thay, anh đã kịp
nhìn thấy đứa con tinh thần của mình trước khi nhắm mắt.
Phải kể dông dài về tác giả Phạm Tiến Duật và nguồn cơn ra
đời bài thơ “Vòng trắng” cùng với những lời đồn thổi, suy diễn oái oăm, quy
chụp nặng nề khiến văn chương nước nhà suýt mất một tài năng thơ huyền thoại
Phạm Tiến Duật, mà sau đây là một “ví dụ” rất khó tin nhưng nó lại là chuyện có
thật đến tê tái lòng.
Chuyện rằng, từ đầu năm 1974, để chuẩn bị cho chiến dịch
tổng tấn công giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Do đó, khắp Miền Bắc
đâu đâu cũng nêu cao khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả cho Miền Nam
ruột thịt”… Một đợt chỉnh huấn tư tưởng được tổ chức học tập rất rốt ráo. Tuyên
giáo Trung ương về tận tỉnh giảng bài, tỉnh giảng cho huyện, rồi huyện giảng
cho xã… khí thế thật tưng bừng và háo hức.
Xã tôi bấy giờ có chị Đinh Thị Kiên, chồng đi B. Chị là một
cán bộ phụ nữ cơ sở rất mẫn cán. Hôm ấy, cả buổi sáng chị Kiên đã dự và tranh
luận rất quyết liệt tại hội nghị “sinh đẻ có kế hoạch”, trong đó có vấn đề rất
mới, rất đặc biệt là “Đặt vòng tránh thai”, một phát minh đặc sắc của khoa học
để hạn chế tăng dân số. Chị Kiên về nhà mới kịp ăn hết củ khoai tía (*) luộc
chấm muối vừng, rồi tức tốc đạp xe lên hội trường huyện để nghe cán cán bộ
tuyên giáo nói về tình hình và nhiệm vụ mới. Chị đến muộn, đồng chí cán bộ
tuyên huấn đang phê phán gay gắt một nhà thơ trẻ thiếu ý chí cách mạng. “Giữa
lúc cần nói to lên niềm sung sướng tự hào về cái được vĩ đại của nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì nhà thơ lại chỉ thấy cái mất, chỉ thấy tang
tóc đau thương và than thở…” rồi đọc bài thơ “Vòng trắng” để minh họa:
“Khói bom lên trời thành một cái vòng đen
Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng
…
Là cái đầu bốc lửa ở bên trong”
Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng
…
Là cái đầu bốc lửa ở bên trong”
Chị Kiên nóng mắt đứng bật dậy nói đanh thép: Sáng nay tôi
đã nói rõ quan điểm cá nhân trong hội nghị “sinh đẻ có kế hoạch” rồi. Tôi cứ
tưởng hội nghị này có gì mới cố tranh thủ đạp xe về dự. Hóa ra nội dung vẫn
thế. Nhưng tôi cũng xin được nói thẳng: “vòng đen”, “vòng trắng” hay “vòng
i-nốc” đi nữa của cái anh nhà thơ “Trần Nhật Duật” nào đó cũng là thất đức tuốt.
Chửa thì đẻ – đẻ thì nuôi, lớn lên chúng nó sẽ cầm súng đánh giặc chứ việc gì
mà phải đặt vòng đặt vèo cho phức tạp thêm vấn đề. Thời buổi này làm đếch gì có
“cái đầu” nào lại “bốc lửa ở bên trong” cái vòng? Các đồng chí ví von khó hiểu
bỏ mẹ…
!!!!
(Hoạ sĩ Ba Tỉnh)
Tuyển tập Phạm Tiến Duật in xong ngày 17-11-2007, và chỉ chưa đầy 20 ngày sau (17/11/2007) nhà thơ Phạm Tiến Duật qua đời? Bài viết này có bị sơ suất nhầm ngày hay không nhỉ?
Trả lờiXóaTuyển tập Phạm Tiến Duật in xong đợt đầu ngày 17/11/2007 trong khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng. Ngày 19/11/2007 Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật. Ngày mồng 4/12/2007 vào hồi 8:50 nhà thơ qua đời vì bệnh ung thư phổi tại Viện Quân y 108 hưởng thọ 67 tuổi. (BBT)
XóaTôi yêu thơ Phạm Tiến Duật. Từ bao giờ không biết, khi tuổi còn thơ ngây, tôi đã say sưa:
Xóa"Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm ..."
Lớn thêm chút nữa, được người yêu thơ tặng tập "Vầng trăng - Quầng lửa", tôi càng mê đắm với thơ của chàng thi sĩ tài hoa:
"Có lẽ nào anh lại mê em
Một cô gái chưa nhìn rõ mặt ..."
Nểu giới thiệu về mình mà có mục "Nhà thơ VN yêu thích", bao giờ tôi cũng trang trọng ghi tên anh: PHẠM TIẾN DUẬT.
Chúc anh sẽ lại có những vần thơ hay nơi cõi vô thường. Để đến một lúc nào đó về nơi ấy, tôi sẽ lại say mê đọc anh.
Một nén nhang tưởng nhớ thi sĩ tài hoa Phạm Tiến Duật
Trả lờiXóa