Sinh thời Hồ Chủ tịch làm khoảng 200 bài thơ, trong đó ba phần tư là thơ bằng chữ Hán theo thể Đường luật. Các bài thơ này không chỉ tác dụng đối với công việc mà còn có giá trị văn học, nghệ thuật cao. Tìm hiểu về Bác, ta thấy những thước phim cảnh Bác đang cưỡi ngựa ở chiến khu Việt Bắc. Về thơ ta chỉ thấy một bài Bác đề cập đến ngựa, đó là bài Tặng Bùi Công làm năm 1948. Bài thơ viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn tứ tuyệt, gieo vần “i”.
贈裴公
看書山鳥棲窗扞
批札春花照硯池
捷報頻來勞驛馬
思公即景贈新詩
Phiên âm:
Tặng Bùi
công
Khán thư sơn
điểu thê song hãn
Phê trát
xuân hoa chiếu nghiễn trì
Tiệp báo tần
lai lao dịch mã
Tư công tức
cảnh tặng tân thi.
Dịch
nghĩa:
Tặng ông
Bùi
Khi xem
sách, chim núi đậu bên cửa sổ như bảo vệ.
Lúc phê
công văn, hoa xuân chiếu vào nghiên mực.
Tin thắng
trận báo về dồn dập làm mệt ngựa trạm giao liên đưa thư.
Nhớ ông
nhân cảnh này tặng một bài thơ mới làm.
Bài thơ này Bác làm đầu năm 1948 sau
Chiến dịch Thu-Đông 1947, ta đã đánh bại các cuộc tấn công của địch lên chiến
khu. Tin thắng trận liên tiếp báo về “tiệp báo tần lai lao dịch mã”, sau đó
kháng chiến đã chuyển từ phòng ngự sang cầm cự, một bước chuyển biến chiến lược.
Bài thơ cho thấy hình ảnh ngựa đưa thư báo tin thắng trận phải hết sức vất vả để
đưa tin tình hình chiến sự “lao dịch mã”. Có thể nói sự vất vả, mệt mỏi của ngựa
bao nhiêu thì thắng lợi của kháng chiến ròn rã bấy nhiêu. Đây là ngựa của chiến
thắng.
Ông Bùi (Bùi công) trong bài thơ này là ông Bùi Bằng
Đoàn (1989 – 1955) lúc đó đang làm Trưởng ban thường vụ Quốc hội, chức danh nay
là Chủ tịch Quốc hội. Để đáp lại, ông Bùi Bằng Đoàn đã làm một bài thơ họa lại
nguyên vận bài thơ này của Hồ Chủ tịch.
Nguyên
tác:
鐵石一心扶種族
江山萬里守城池
知公國事無餘暇
操筆仍成退虜詩
Phiên âm:
Thiết thạch
nhất tâm phù chủng tộc
Giang sơn
vạn lý thủ thành trì
Tri công
quốc sự vô dư hạ
Thao bút
nhưng thành thoái lỗ thi
Dịch
nghĩa:
Một lòng sắt
đá ủng hộ dân tộc trong cuộc kháng chiến này.
Sông núi
dài, rộng muôn vạn dặm, cần giữ vững thành trì của cách mạng.
Biết Người
(Hồ Chủ tịch) bận nhiều việc nước không rảnh rỗi.
Thế mà vẫn
cầm bút viết nên những dòng thơ đuổi giặc.
Bài thơ họa của ông Bùi Bằng Đoàn đã thể hiện sự mẫu mực trong làm thơ họa
vần, bảo đảm giữ chữ “trì” cuối câu 2 và chữ “thi” cuối câu 4, không chữ nào ở
các câu liên quan bị lặp lại. Đồng thời nội dung thể hiện sự liên kết và hỗ trợ
cho bài gốc. Chữ “thủ thành trì” ở câu 2, ngoài nghĩa là giữ vững đất nước, còn
có ý cho thấy kháng chiến đang thời kỳ phòng ngự. Chữ “thoái lỗ”, ngoài nghĩa
là đuổi giặc, còn có ý là quân ta ở thế phòng thủ đẩy lui cuộc tiến công của địch.
Điều này phản ánh cục diện quân sự lúc đó.
Nhiều trang báo thơ xuân và tài liệu thường nhắc đến
hai bài thơ xướng họa này như là một tuyệt phẩm văn học, tuy nhiên có một lưu ý
nhỏ cần chú ý là chữ thứ 7 trong câu đầu tiên bài xướng, chữ “hãn扞” kết cấu
chữ Hán là “扞”, gồm bộ
thủ 扌và chữ can 干, nghĩa là bảo vệ, che. Một số
tài liệu viết thành chữ “thiên扦”
gồm bộ thủ 扌và chữ thiên千 có tự dạng hơi giống chữ can干. Chữ扦 thiên có nghĩa là cái que, cài cắm, trong trường hợp
này không phù hợp, đồng thời sai về vận.
Hai bài thơ hay về về thi ca, lại
chứa đựng các thông tin có giá trị về lịch sử, quân sự. Độc giả, người nghiên
cứu đều tìm thấy những giá trị ý nghĩa cho mình.
(TĐP)
Bài này trước đây đã biết rồi, nay đọc lại hiểu hơn nhờ phần phân tích.
Trả lờiXóaLàm thơ kiểu này đẳng cấp thật
Trả lờiXóaMình rất khoái kiểu các cụ ngày xưa vừa làm quan vừa làm thơ, đời sau truyền tụng.
Trả lờiXóa