Để bạn
đọc hiểu rõ hơn về hai nhân vật lịch sử có liên quan chặt chẽ với nhau là
nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của giáo sư Trần
Quốc Vượng (1934-2005), một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực lịch sử, văn
hóa, khảo cổ ở nước ta 50 năm trở lại đây. Ông được xem là một trong "tứ
trụ" "Lâm, Lê, Tấn, Vượng"
(tức các giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan
Huy Lê, Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng) của sử học Việt Nam đương đại.(BBT)
* PHẦN MỘT
Tôi không phải là một chuyên gia
về lịch sử, đặc biệt là về nhà Nguyễn, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng có những
nghĩ suy và thực ra là từ những năm giữa thập kỷ 70 cho đến gần đây, đầu xuân
Bính Tý 1996. Tôi vẫn thường qua lại xứ Huế và viết dăm bẩy bài về vị thế địa –
văn hóa của xứ Huế và vai trò của các chúa Nguyễn, bắt đầu từ Chúa Tiên Nguyễn
Hoàng (1558-1613) đến các vua đầu nhà Nguyễn, mở đầu là vua Gia Long
(1802-1820) và kết thúc là vua Bảo Đại (1925-1945). Nay theo yêu cầu của Ban tổ
chức Hội nghị về vua Gia Long (1802-1820), tôi chỉ xin nói tóm tắt đôi điều mà
tôi cảm nhận được về Nguyễn Ánh – Gia Long.
1.1. Về Nguyễn Ánh: Nếu tôi nhớ
không nhầm thì cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (mà những người theo lý thuyết Mác-xít
thường gọi là “Khởi nghĩa nông dân”) bắt đầu xảy ra vào năm 1771, khi Nguyễn
Huệ sau này trở thành vua Quang Trung vĩ đại bấy giờ mới 18 tuổi, thì lúc đó
Nguyễn Ánh còn kém Nguyễn Huệ ít ra là 7 tuổi, nghĩa là mới chỉ một cậu bé con
trên 10 tuổi, cháu của chúa Nguyễn Phước Thuần. Thế mà chính “cậu bé” Nguyễn
Ánh đó – sau khi chúa Nguyễn và gần như hết thảy những nhân vật của dòng chúa
đã bị họ Nguyễn Tây Sơn thủ tiêu sạch trơn – đâu chỉ khoảng 14 tuổi, từ xứ Huế,
xứ Quảng chạy vô châu thổ sông Cửu Long và gần như là đại diện duy nhất còn lại
của dòng chúa Nguyễn, đã trở thành vị Nguyên Soái chống lại phong trào Tây Sơn
đang dâng lên và lan tỏa trong toàn quốc từ Nam chí Bắc như triều dâng thác đổ.
1.2. Tôi không bao giờ phủ định
rằng phong trào Tây Sơn đã có những công tích vĩ đại, ít nhất ở ba mặt sau đây:
- Ở Đàng Trong thì lật đổ “trào
đình” của các chúa Nguyễn rồi tiến ra Đàng Ngoài lật đổ “trào đình” của các
chúa Trịnh cùng với triều Lê – mà những ông vua Lê từ quãng đầu thế kỷ XVII
trên diễn trình lịch sử đã trở thành những ông vua “bù nhìn”, hay là các “con
rối” (puppet) trong tay các chúa Trịnh.
- Chiến thắng vĩ đại chống quân
xâm lược Xiêm mà đỉnh cao là trận Rạch Gầm – Xoài Mút ở Mỹ Tho (Tiền Giang) vào
cuối năm 1784 đầu 1785. Quân xâm lược Xiêm 5 vạn đã “sợ Tây Sơn như sợ cọp” và
chính là do lợi dụng việc Nguyễn Ánh cậy nhờ mà định sang chiếm đoạt miền Nam. Nguyễn Ánh
mãi mãi mang tiếng xấu “cõng rắn cắn gà nhà”, cầu ngoại viện để giải
quyết vấn đề quốc sự.
- Đại chiến thắng chống vài chục
vạn quân xâm lược Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789 – mà ông vua cuối cùng của nhà Lê
là Chiêu Thống đã cầu cứu. Và cũng như Nguyễn Ánh, ông vua Lê ấy cũng mang một
bộ mặt nhọ nhem trong lịch sử.
1.3. Nguyễn Ánh cùng Chiêu Thống
càng lem luốc bao nhiêu trước lịch sử thì hình ảnh Nguyễn Huệ – Bắc Bình Vương
– Quang Trung càng được xem là bộ mặt tỏa rạng và có một vai trò lịch sử lớn
lao bấy nhiêu trong lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII.
Nhưng bảo rằng Huế – Phú Xuân là
do vua Quang Trung xây dựng thành một đô thị thủ đô thì theo tôi lại là một lối
viết quá đà ! Huế, với thành Lồi ở Long Thọ bờ phải sông Hương và thành Lý Châu
– sau đổi là Hóa Châu ở lưu vực sông Bồ đã trở nên một thị thành, một cảng thị
(City-Port, Nagara) – từ thời Chiêm Thành và sau đó thời Đại Việt Huyền Trân
nhà Trần (sau 1306) và sau đó nữa là Quãng Phước, Kim Long thời chúa Sãi Nguyễn
Phước Nguyên và Phú Xuân thời chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1636-1648) và sau
chót là Gia Long – Minh Mạng (trước Gia Long, Phú Xuân vẫn chỉ là Làng Xã).
1.4. Tuy không phải là một nhà sử
học chính tông, nhưng tôi không bao giờ dám thể tất cho Nguyễn Ánh khi ông vì
thế cùng lực kiệt, đã qua giám mục Bá Đa Lộc (Evêque D’Adran) và cậu bé tí hon
hoàng tử Cảnh (lúc bấy giờ khoảng 6 tuổi) đi cầu viện các thế lực phương Tây
(nhất là Pháp), đã dám cho vị giám mục người Pháp đó toàn quyền đại diện cho
nước Việt phương Nam ký với Pháp cái gọi Hiệp ước Versailles, nhượng cho Pháp
nào đảo Côn Lôn, nào cảng cửa Hàn… để mong nước Pháp quân chủ cuối mùa (1787)
cứu một nền quân chủ cũng cuối mùa nốt của Đại Việt. Cho dù cái nước Pháp quân
chủ cuối mùa ấy đã không giúp đỡ gì được cho Nguyễn Ánh và đã được / bị cuộc
cách mạng 1789-1790 xóa sổ khỏi lịch sử phương Tây, nhưng sao chăng nữa, việc
đó cũng tạo “tiền lệ” cho giới thực dân phương Tây mà trước hết là Pháp cùng
với vài thế lực Thiên chúa giáo thân (Pro) thực dân can thiệp ngày càng sâu vào
nội trị Việt Nam, và dẫn tới việc mất nước của ta vào nửa cuối thế kỷ XIX. Ký
hiệp ước, hòa ước để nhượng địa rồi “mãi quốc cầu vinh” là những thủ
đoạn hèn hạ của thực dân đầu mùa và quân chủ cuối mùa.
1.5. Tuy sự thật lịch sử cho tôi
– và cho chúng ta – biết rõ rằng những điều khoản của Hiệp ước Versailles ấy đã
không thực hiện và sau này, khi đại diện của chính phủ Pháp đòi vua Gia Long
thực hiện hiệp ước Versailles thì vua Gia Long đã kiên quyết từ chối với lý do
rất chính đáng là: nước Pháp có thực hiện điều khoản nào của hiệp ước
Versailles đâu !
Trên đường từ Pháp về Pondichery
(Ấn Độ), giám mục Bá Đa Lộc chỉ tuyển được một số sĩ quan, kỹ sư, kẻ “phiêu
lưu” người Pháp và với một số rất ít kinh phí mua được vài cái tàu bọc đồng –
mà vua Quang Trung coi là những sự hù dọa vớ vẩn – để mang về giúp Nguyễn Ánh.
Cho nên theo tôi, cố giáo sư Trần Đức Thảo và một số người khác đã viết hơi quá
đà, rằng sự viện trợ của Pháp là một trong những nhân tố quan trọng nhất để tập
đoàn Nguyễn Ánh đã đánh bại phong trào triều đại Tây Sơn, từ Nguyễn Nhạc đến
Cảnh Thịnh – Bảo Hưng (1792-1802).
1.6. Như vậy, với những điều viết
trên, là tôi đã có một hàm ngôn rằng, sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đối với triều
đại Tây Sơn chủ yếu là do những nguyên nhân nội sinh, và đứng về mặt
cá nhân tôi hay là của chúng ta nhỉ, cũng đáng nên “khâm phục” dù “chút chút” –
Nguyễn Ánh – một người có cá tính mạnh, từ một cậu bé con của một ông chúa bị
giết hại trong tù, gần như đã nhiều lúc không còn một mảnh giáp, không còn một
tấc đất, đã lấy lại được quyền bính trong cả nước Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà
Mau. Theo PGS Trần Lâm Biền, nền mỹ thuật Việt Nam chỉ có những thi pháp kiến trúc
chung từ xứ Lạng đến Gia Định thành là từ Nguyễn Gia Long.
1.7. Cho nên, cũng không phải quá
đáng lắm khi linh mục Nguyễn Phương và một số nhà sử học nước ngoài khác – từ
phe XHCN (cũ) đến phe tư bản chủ nghĩa – cho rằng Nguyễn Ánh là người trên
thực tế đã thống nhất đất nước chứ không phải là ông vua anh hùng Nguyễn
Huệ – Quang Trung, mặc dù ông vua anh hùng 3 lần vĩ đại này đã gạt bỏ những thế
lực quân chủ thối nát ở Đàng Trong, Đàng Ngoài và những lực lượng ngoại xâm
đứng đàng sau những quyền lực khốn nạn ấy. Và như vậy, xét về mặt lịch sử khách
quan là đã góp phần rất lớn vào công cuộc thống nhất đất nước.
1.8. Không nói gì đến ông Nguyễn
Lữ – là “thầy tu” hay là “thầy võ” – không đủ nội lực để đối địch với Nguyễn
Ánh ở miền Nam, chỉ nói đến ông anh Nguyễn Nhạc xuất thân “nậu nguồn” và ông em
Hồ Thơm (Nguyễn Huệ) thì, do sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia đình, mà theo tôi
“ghê tởm” nhất là ông anh cả Nguyễn Nhạc đã vì sự thỏa mãn nhỏ nhen được làm
Trung ương Hoàng đế ở thành Trà Bàn, rồi vì ghen tị và “chãnh chọe” với em sau
vụ Bắc Bình Vương “xóa hận sông Gianh” tiến ra Thăng Long, đã vội vã ra Bắc kéo
em về, rồi lại hãm hiếp cô em dâu – vợ Nguyễn Huệ – tạo mối thù hận khôn nguôi
và chiến tranh giữa hai anh em, khiến dưới triều Tây Sơn có một ông hoàng đế ở
Quy Nhơn và một ông hoàng đế ở Phú Xuân. Vậy làm sao có thể nói được là nước ta
đã được thống nhất ngay dưới thời Tây Sơn ? Đó là một “lập trường giai cấp” máy
móc đang chuyện nọ (chống ngoại xâm) “xọ chuyện kia” (chống quân chủ Nguyễn –
Trịnh).
1.9. Ở đây có một vấn đề thuộc
phương pháp luận sử học cần được làm sáng tỏ là: Lịch sử bao giờ cũng có một sự
gián cách giữa lịch sử – thực tại (Histoire – Réalité) và lịch sử nhận thức
(Histoire – Conscience). Mà cái lịch sử nhận thức thì luôn gắn liền với chủ
quan nhà sử học – nhưng trách nhiệm và bổn phận của nhà sử học chân chính là
luôn luôn cần cố gắng có cái nhìn khách quan đến mức cao nhất. Mức cao nhất đó
là như các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cuối thế kỷ XX nói: Hơn ai hết là nhà
sử học cần “nhìn thẳng vào sự thật !”, nói đúng sự thật, và giải thích
một cách khoa học cái sự thật khách quan ấy. Vẫn theo tôi, “tâm thức tiểu nông”
Việt Nam là nền tảng tinh thần của nền “dân chủ làng xã”, của sự đồng dạng văn
hóa (Cultural Identity) ở cấp văn hóa xóm làng Đại Việt – Việt Nam một thời.
Thống nhất rồi chia rẽ, đó là “trách nhiệm lịch sử” của cấu trúc quân chủ Phật
giáo (Lý – Trần), rồi quân chủ Nho giáo (Lê – Nguyễn). Lịch sử chính trị và
lịch sử văn hóa, có cái CHUNG và cũng có cái RIÊNG. Quy mọi thứ vào chính trị
hay vào kinh tế là cái nhìn (Point of view) đã “lỗi thời” (Over time) lâu rồi,
quá lâu rồi !
* PHẦN HAI
01. Luôn “trung thành” với tư duy
tự ý thức rằng “Tôi không phải là một nhà sử học chính tông”, sau đây tôi chỉ
nói – và viết – đôi điều “lặt vặt” tôi nhớ lại và cảm nhận được về vị vua khai
sáng triều Nguyễn – Gia Long.
01.1. Nguyễn Ánh đã từng bôn ba
từ đất liền ra các hải đảo, Côn Lôn, Phú Quốc…
Do nghiệm sinh cá nhân, tôi rất
thích những người “bôn ba”, “từng trải”… dù với ý định chủ quan gì hay là do sự
dủi dun của Trời Đất – Tự nhiên. Vị Tam Nguyên Vị Xuyên xứ Nam Hạ – Nam Hà quê
tôi Trần Bích San đã có hai câu thơ mà tôi coi là tuyệt bút, nhất là câu sau:
Văn vô sơn thủy phi kỳ
khí,
Nhân bất phong sương vị
lão tài !
Nghĩa là:
Văn không sông núi,
không cao diệu,
Người chẳng phong
sương, khó rạng tài !
01.2. Rất gần đây, tôi được đọc
bản thảo bài viết của một học giả Mỹ, trong đó có đoạn đại ý rằng:
Phụ thân Hồ Chí Minh – Cụ phó
bảng Nguyễn Sinh Huy (Sắc) là một người phiêu lãng (Wanderer), nhưng
cụ mới chỉ “lãng du” ở trong nước Việt từ xứ Nghệ xứ Huế đến xứ Thanh, xứ Bình
Định rồi vô miền Nam, Sài Gòn, Sông Bé, Long An, Sa Đéc…
Có thể Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh cũng được “di truyền” bởi cái “gen” văn hóa phiêu lãng (wandering) đó,
nhưng “CON hơn cha là nhà có PHÚC”, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã phiêu lãng
gần như toàn thế giới, từ Á, Âu đến Phi, Mỹ… và ông đã có dịp “sống nghiệm” với
nhiều nền văn hóa khác nhau; do đó ông đã trải nghiệm đối sánh nhiều
LỐI SỐNG (Way (s)) trên tảng nền LỐI SỐNG VIỆT NAM. Ông giỏi ngoại ngữ mà ngôn
ngữ là một sản phẩm đồng thời là một thành tố của Văn hóa, cho nên ông trở
thành người của toàn Nhân loại và ông trở nên DUNG DỊ (Generous), rất Việt Nam
và cũng rất “Thể tất”, rất “Cận NHÂN TÌNH” (Hunman Sense). Do vậy, Wandering
phiêu lãng ở ông là một GIÁ TRỊ VĂN HÓA.
Thế mà đã có kẻ dám dịch
“wandering” là “lang bang, lang thang” và bảo rằng học giả Mỹ đó có dụng ý nói
xấu Cụ Hồ ! Đáng xấu hổ thay người “DỐT HAY NÓI CHỮ” hay là “HAY CHỮ LỎNG” !
01.3. Nguyễn Ánh (Gia Long từ
1802) đã bôn ba từ đất liền đến hải đảo, từ Việt đến Xiêm, đánh Tây Sơn bại rồi
thắng to cũng có, mà đánh thắng cả Miến Điện theo yêu cầu – có lúc là “quái ác”
– của vua Xiêm cũng có. Nguyễn Ánh bẩm sinh và sinh nghiệm là một vị tướng tài
ba “thắng không kiêu, bại không nản”. Bị Xiêm rồi bị Pháp và sau cả Thanh Mãn
Trung Hoa khống chế, gây “áp lực” song Nguyễn Ánh vẫn tìm mọi cách để “thoát
ra” được sự khống chế đó và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân tôi – ông vẫn là
NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM, cho dù ông chịu
nhiều áp lực ngoại bang và cũng có lúc phải sử dụng nhiều cố vấn trong nước và
nước ngoài. Ông nghe nhiều nhưng ông nghĩ và làm phần
nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về cuối đời, dù nể trọng Tả quân Lê Văn Duyệt,
ông vẫn quyết định chọn hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng ngày sau) chứ đâu có chọn
cháu đích tông – con hoàng tử Cảnh – làm người kế vị ông. Mà Minh Mạng, thì nên
trọng nể và học tập ông về việc quản lý hành chánh đất nước và xã hội nhiều hơn
nữa, chứ trách cứ ông thì cũng dễ thôi.
01.4. Cho dù ông tin cậy và nhờ
cậy vào giám mục Bá Đa Lộc và tỏ ra “khoan hòa” với Thiên chúa giáo của phương
Tây, cho dù hoàng tử Cảnh – trưởng nam của ông – đã trở thành giáo dân Thiên
chúa giáo, khi ở Gia Định (Nam Bộ) cũng như khi trở thành hoàng đế toàn Việt
Nam, ông vẫn tôn Nho, trọng dụng “Gia Định tam gia” người Việt gốc Hoa (Trịnh
Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh), vẫn trọng Phật, Lão và tín ngưỡng dân
gian, dù là Việt Nam, là Khơ Me, hay là Chăm, là Thượng… Đội cận vệ của Gia
Long, theo sử chép, chủ yếu là người “Thượng” (Sơn nhân). Ở thập kỷ 80, tôi đi
điền dã ở xứ Quảng, ở Tây Nguyên, các tộc “thiểu số” vẫn nhắc đến Gia Long với
một niềm kính nể. Có một thứ cây nửa trồng nửa hoang dại mang tên “Hoàng oanh
quất” (quýt vàng) quả ăn ngon, người dân tộc vẫn bảo tôi rằng đó là thứ quả cây
của vùng sơn cước đã nuôi sống Nguyễn Ánh thời khăn khó, sau này trở thành Quýt
Ngự. Ấy là tôi chưa kể “Quế Trà My”…
01.5. Ông không chống Tây, Thiên
chúa, cũng không sùng bái quá đáng Thanh – Nho như người ta tưởng, và ông loay
hoay – tìm mà chẳng được – một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM. Ông làm theo kiểu Việt Nam mà chưa điều chế nổi một lối suy nghĩ (Way
of thinking) Việt Nam.
Chỉ sau này Nguyễn Ái Quốc mới xây dựng được một Tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối
thuần Việt Nam.
Nhưng đó lại là một đề tài chuyên luận Triết – Sử khác, ít dính dáng đến chủ đề
ta đang bàn về Gia Long.
02. Sau 10 năm chinh chiến mà dân
gian miền Nam Trung Bộ gọi là “TRẬN GIẶC MÙA” (1791-1801) – mùa gió nồm nam,
Nguyễn Ánh mới dùng đội thủy chiến THUYỀN BUỒM ra đánh Tây Sơn – cuối cùng ông
đã thắng.
02.1. Tôi là con cháu nhà Nho nên
cũng có biết câu “Bất tương thành bại luận anh hùng”, nghĩa là “luận
anh hùng, chớ kể hơn thua !”.
Song, nếu tôi là nhà sử học như
các quý vị Phan Huy Lê, Nguyễn Phan Quang… khả kính, tôi cũng phải tìm cách
“giải thích” lịch sử chiến thắng của Nguyễn Ánh với Tây Sơn chứ nhỉ ?
Chả nhẽ lại chỉ dùng một thứ “chủ
nghĩa Mác thô sơ” là cuối cùng NÔNG DÂN – nếu không có một Đảng của
giai cấp công nhân đô thị hiện đại lãnh đạo thì bao giờ cũng THUA giai cấp địa
chủ – phong kiến , mà dù có thắng – như Tây Sơn đã từng thắng trước đó – thì
rồi cũng bị ĐỊA CHỦ HÓA, PHONG KIẾN HÓA mà thôi !
02.2. Như tôi đã nghiệm sinh trên
điền dã khắp Bắc Trung và chút chút ở miền Nam, tôi đã thấy cả Nguyễn Nhạc và
cả Bắc Bình Vương – Quang Trung (tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa) đã thất nhân
tâm khi các ông – như học giả Tạ Chí Đại Trường đã dẫn ra nhiều chứng cứ
(Xem Nội chiến ở Việt Nam 1771-1801…) – ở miền Trung, chỉ để 01 chùa ở
cấp huyện, ở miền Bắc chỉ để 01 chùa ở cấp tổng. “ĐẤT VUA – chùa LÀNG – Phong
cảnh BỤT” – sáng – chiều nghe tiếng chuông chùa “chiêu mộ” để tấm lòng thư
giãn, để biết thời gian trôi chảy vô thường đã từ lâu in hằn vào tâm thức người
Việt. Phá chùa, đập tượng, nung chuông (làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại
tâm thức Việt Nam.
Có lẽ nào dân gian xứ Bắc – Đàng Ngoài vốn kính VUA (Lê) nể CHÚA (Trịnh) và
sùng Phật – Đạo, dù rất trọng Quang Trung đã vì dân mà chiến đấu và chiến thắng
giặc Mãn Thanh, thế mà bên câu ca dao “cổ” (XV):
Lạy trời cho cả gió
lên,
Cho cờ vua Bình Định
phất trên kinh thành.
Lại có câu ca dao “cận đại”:
Lạy trời cho cả gió Nồm,
Cho thuyền chúa Nguyễn
thắng buồm thẳng ra !
Ra… là ra Bắc. Vô là vô (vào) Trung – Nam. Đấy là một câu ca dao thuần
Bắc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đừng nên chỉ suy diễn lòng dân
(XVIII-XIX) theo chủ quan “bác học” (XX), mà nhà làm sử rất nên tham khảo
Folklore, nhất là Folklore cổ – cận – dân gian.
02.3. Quân Tây Sơn vào Nam – Nam
Bộ – thì phá Cù Lao Phố (Biên Hòa hiện nay), giết hại thương nhân Hoa kiều, vứt
phá hàng ngoại bỏ ra đầy đường, sau ở Sài Gòn thì cũng vậy; ra Trung thì tàn
phá Hội An (Faifoo), 10 năm sau còn chưa phục hồi lại được; ra Bắc thì phá Vị
Hoàng, phố Hiến và có đâu chừa lắm cả Thăng Long. Khi nho sĩ Bắc Hà – mượn lời
nông dân xóm Văn Chương – để thưa kiện với chúa Tây Sơn về việc tòa Văn Miếu –
bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã thành thật phê vào đơn:
Thôi ! Thôi ! Thôi ! Việc đã
rồi !
Trăm điều hãy cứ trách bồi
vào ta !
Nay mai dựng lại nước nhà,
Bia Nghè lại dựng trên tòa
muôn gian.
Thôi cũng đừng đổ oan cho
thằng Trịnh Khải (1785-1786) !
02.4. Gia Long dù bắt đổi Thăng
Long (昇
龍)
từ thành phố Rồng bay thủ đô cả nước ra Thăng Long (昇 隆)
– ngày thêm thịnh vượng – thủ phủ Bắc thành và dời thủ đô cùng cả Quốc Tử Giám
– Văn Miếu vào Huế thì ở Văn Miếu Thăng Long, Gia Long vẫn cho xây một tòa Khuê
Văn Các, nhỏ thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh
Quan, ông cũng cho xây một tòa Cột Cờ cao đẹp nhất kinh thành ngày ấy
và cho đến nay còn tồn tại !
Thế thì kể ra cũng khó mà chê Gia
Long và nghệ thuật kiến trúc Nguyễn ! Mà chê bai làm gì nhỉ, khi chúng – với
thời gian – đã trở thành cái ĐẸP, cái Di sản Văn hóa Dân tộc – Dân gian.
Huế trở thành một Di sản Văn hóa
Nhân loại – theo Quyết định của UNESCO 1993, mà hiện nay ta rất tự hào và đang
biến thành Trung tâm Du lịch Văn hóa Việt Nam là NHỜ AI, nếu không phải là nhờ
VUA – QUAN – DÂN thời Gia Long – Minh Mạng – Tự Đức và Nguyễn nói chung ?
Kính xin quý vị Sử gia – tạm /
gượng gọi là “đồng nghiệp” của tôi bơn bớt việc “chửi bới” nhà Nguyễn – đời
Nguyễn – bắt đầu từ Gia Long – đi cho tôi và dân chúng nhờ… Và thái độ tốt nhất
là xếp cả xứ Huế và Việt Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và coi khi đó, không
gian đó như một TẤT YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM !
03. Có một huyền tích lưu hành
rất dai dẳng – và còn được ghi bằng giấy mực nữa kia – là khi Nguyễn Ánh – Gia
Long (năm 1801) chiếm lại được Phú Xuân – Huế từ tay triều đại Tây Sơn, đã
“cướp” công chúa Lê Ngọc Hân – Bắc cung Hoàng hậu của Quang Trung làm vợ. Huyền
tích ấy nay đã được giải ảo hiện thực (désenchanter le réel). Sự thực lịch sử
là thế này:
03.1. Sau khi vua Quang Trung mất
(1792), Ngọc Hân đã dời cung điện ra ở chùa Tiên gần lăng mộ Quang Trung (xem
sách “Đi tìm lăng mộ Quang Trung” của Nguyễn Đắc Xuân và nhất là xem
thơ Phan Huy Ích). Theo tôi, đó là vì vua Cảnh Thịnh kế nghiệp Quang Trung mới
12 tuổi (không phải là con đẻ của Ngọc Hân) cùng thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu của
Cảnh Thịnh) rất lộng quyền, chẳng ưa gì bà Ngọc Hân xứ Bắc, nên bà đã có ứng xử
“chẳng tu thì cũng như tu mới là”; cũng có thể là bà “nặng tình nặng nghĩa” với
Quang Trung. Bà có với Quang Trung hai (02) người con, bà mất sớm (1799) và cả
hai con bà cũng vậy (1801).
03.2. Cho nên không làm gì có
chuyện vua Gia Long giết hai con bà và lại lấy bà làm vợ. Khi Ngọc Hân làm vợ
Quang Trung, đã môi giới để người em cùng nhũ mẫu là Ngọc Bình làm vợ của Cảnh
Thịnh.
Khi Cảnh Thịnh chạy ra Bắc, không
hiểu vì lý do gì, bà Ngọc Bình bị kẹt ở Phú Xuân. Gia Long chiếm Phú Xuân, bắt
được Ngọc Bình và quyết định ngay lấy làm vợ (phi). Cả đám triều thần của Gia
Long xúm lại can ngăn, họ nói: - Bệ hạ nay có cả thiên hạ, thiếu gì gái đẹp
– trinh nguyên, việc gì phải lấy vợ của giặc làm vợ mình ! Vua Gia Long
cười ha hả mà nói: - Đến đất nước của giặc “tau” còn lấy, huống chi là vợ
giặc,“tau” lấy vợ giặc làm vợ “tau” thì có chi mô !
Về việc này Biên Niên sử của
triều Nguyễn còn chép hẳn hoi, xem – chẳng hạn – Đại Nam Thực lục Chính biên.
Tôi kể chuyện này với ông bạn
thân – nay đã quá cố “người xứ Huế” (mẹ là dòng Hoàng phái Nguyễn) là PGS
Nguyễn Đức Từ Chi, ông cười lâu lắm và bảo tôi rằng: - Ở đại học, tôi học
cổ sử Việt Nam
với các thầy khác nên không biết chuyện này. Nay nghe anh kể mới biết. Thật là
tuyệt ! Đây là một “ca” (case = trường hợp) mà nếu lý giải bằng phân tâm học
(psyanalyse) thì sẽ rất lý thú. Nhưng câu nói ấy của Gia Long trả lời các quan
đại thần là rất “cynique” (tôi chưa biết dịch là gì cho đúng, đại khái là
rất “tởm”, “lỗ mãng”, “bất cần sĩ diện”, “trắng trợn”… nhưng mà rất THỰC) đấy
chứ, phải không anh ?
Tôi mủm mỉm gật đầu đồng ý.
03.3. Tôi được đọc GIA PHẢ nhà họ
Nguyễn ở làng Nành (nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội) quê bà
Nguyễn Thị Huyền, mẹ bà Ngọc Bình, nhũ mẫu của bà Ngọc Hân. Gia phả có đoạn
chép:
Bà cụ Nguyễn Thị Huyền – qua con
gái là bà Ngọc Bình – có làm đơn xin cải táng mộ bà Ngọc Hân (và hai con bà) về
Bắc, về quê bà. Vua Gia Long đồng ý. Tiểu sành đựng xương cốt bà Ngọc
Hân được chở bằng thuyền về làng Nành và được xây mộ hẳn hoi. Mãi đến thời Thiệu
Trị (1840-1847), có một tên cường hào ở làng Nành vì có sự chảnh chọe ngôi thứ
gì đó với dòng họ Nguyễn nên làm đơn vu cáo họ Nguyễn đã “lợi dụng” gì đó về
ngôi “mả ngụy” Ngọc Hân, cấp trên nó quan liêu hay ăn đút lót gì đó – không
biết – phê vào đơn cho phép đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông Nhị Hồng…
Hiện nay ở Gia Lâm có đền Ghềnh,
tương truyền là “rất thiêng”, đấy chính là nơi hài cốt Ngọc Hân dạt vào, được
dân vớt lên mai táng lại. Nhiều nhà “Hà Nội học” – không đọc gia phả họ Nguyễn
làng Nành – đã nói và viết rất “lu bu” về chuyện này và “đổ vạ” cho Gia Long và
nhà Nguyễn đào mả vợ Quang Trung để trả thù! “Trả thù”, vâng, có thể có ở mọi
thời, song việc đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông không phải là việc và trách
nhiệm – tội lỗi của Gia Long.
03.4. Gia Long “tội vạ” gì mà gây
thù chuốc oán thêm với sĩ phu và dân chúng Bắc Hà mà ông chê bai là “bạc” –
theo thành ngữ dân gian – hay được / bị “dân gian hóa” thành câu: “Bạc như
dân, bất nhân như lính”.
Theo chỗ tôi được biết (tôi biết
rất ít thôi), thì sau khi vua Gia Long ra Bắc (1802) diệt nốt “dư đảng Tây Sơn”
và cử Nguyễn Văn Thành (“Tiền Quân Thành”) làm Bắc thành trấn thủ, vua Gia Long
đã – qua ông Thành – làm vài việc sau đây:
03.5. Tổ chức một lễ tế “Trận
vong tướng sĩ” ở bên bờ sông Nhị phía Đông thành Thăng Long. Bài văn tế
này vẫn còn và khi xưa – tôi học trung học – vẫn được học ở sách Việt Nam
văn học sử yếu của cố GS Dương Quảng Hàm. Sách này đề tên tác giả bài văn
tế là “Vô danh”, sau này giới Văn học và Hà Nội học đã tìm ra tác giả chính là
Nguyễn Huy Lượng, sĩ phu Bắc Hà – người đã cộng tác với triều đình Tây Sơn đến
cùng (1801) và viết bài Phú nôm nổi tiếng “Tụng Tây hồ phú” (và do vậy
Phạm Thái, sĩ phu Bắc Hà chống Tây Sơn đã viết bài phản bác cũng khá hay với
nhan đề “Chiến tụng Tây hồ phú”). Lễ tế vong này và bài văn tế giành
cho mọi sĩ tử binh không phân biệt ai là “chân” ai là “ngụy”. Tế xong, Nguyễn
Huy Lượng không bị phạt tù tội gì về việc cộng tác với nhà Tây Sơn và Nguyễn
Gia Long “bổ” cho ông cử nhân hay chữ này một chức tri huyện ở phủ Nghĩa Hưng
(Nam Định), sau ông bị – theo gia phả và sử địa phương chí chép – giặc cướp
giết.
03.6. Cũng dưới thời vua Gia
Long, bà phi “tòng vong” với Lê Chiêu Thống xin triều Nguyễn cho đưa hài cốt
ông vua Lê cuối cùng này cùng vài quan tòng vong (đã chết bên nước Thanh) đem
về nước. Vua Gia Long – qua lời tâu của Trấn thủ Bắc thành – đã đồng ý.
Bà phi họ Nguyễn này mang hài cốt chồng và vài quan khác về Việt Nam chôn cất
xong thì tự tử chết. Bà cũng được mai táng tử tế (tôi được học chuyện này từ
thời trung học Pháp thuộc).
Vua Gia Long đã sai lập “đền Cố
Lê” ở Hà Nội (mạn phố Thụy Khuê) để thờ vua Lê cũ và sai dỡ nhà Thái miếu ở
Thăng Long về Bố Vệ xứ Thanh quê nhà Lê lập đền thờ. “Đền vua Lê” (còn gọi là
“Thái miếu”) hiện vẫn còn và đã được Bộ Văn hóa Thông tin nhà nước CHXHCN Việt
Nam xếp hạng (“Di tích Văn hóa được xếp hạng”).
03.7. Quê tổ nhà Nguyễn là Gia
Miêu ngoại trang ở Hà Trung – Thanh Hóa, đối diện với dãi núi Triệu Tường. Ở
Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã trở thành “ông Hai” (ông cả Nguyễn Uông đã bị anh
rể – chồng bà Ngọc Bảo – giết để cướp chính quyền Thái Sư (như thủ tướng
ngày sau), thay thế ông bố vợ Nguyễn Kim (phụ thân Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng)
đã bị đầu độc chết. Từ thế kỷ XVII-XVIII trên đường hình thành đạo Mẫu Việt Nam
mà mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Giầy (Vụ Bản, Nam Định, Nam Hà) trở thành “Thánh Mẫu”
theo thần tích, ít ra là từ đời Cảnh Hưng (1740-1786). Nguyễn Hoàng đã được thờ
ở khắp xứ Đàng Ngoài dưới tên gọi “Quan Lớn Triệu Tường”. Vua Gia Long đã về
thăm quê gốc Gia Miêu.
Trên đường công tác điền dã, năm
1994, tôi đã về thăm Gia Miêu, thăm ngoại / nội trang, thăm núi Triệu Tường, và
đang đứng trầm ngâm chiêm ngắm ngôi đình được trùng tu lại thời Gia Long, rất
đẹp mắt nhưng đang gần như bị “bỏ quên” (chưa được xếp hạng và đang xuống cấp,
chưa được trùng tu tôn tạo) thì được một cán bộ xã mời về trụ sở Đảng ủy và
UBND xã.
Tôi những tưởng mình sẽ bị khiển
trách và “thăm hỏi” vì đã dám ghé thăm ngôi đình làng mang niên hiệu Gia Long
trùng tu mà không trình báo lãnh đạo xã. Nhưng không!, tôi được chiêu đãi một
bữa bia “đã đời”, vì đã được cán bộ xã đứng tựa cột đình “nghe lỏm” –
tôi đang giảng giải cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình làng này và
tỏ ý tiếc vì bị nhà nước bỏ quên ! Nghe các nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long
nói thêm về tình hình xã, tôi rất mừng vì các đảng viên cộng sản Gia Miêu quê
hương nhà Nguyễn đã tỏ ra có “tư duy đổi mới” khi nhận nhìn vai trò lịch sử của
vua Gia Long và nhà Nguyễn với thái độ “thể tất nhân tình”, rất đậm đà bản sắc
Việt Nam. Vua Gia Long sai sửa đình làng quê gốc của mình nhưng không hề sai
sửa lại tên quê. Mãi đến thời Tự Đức (1848-1883), ông vua này mới sai đổi tên
Gia Miêu cũ xưa thành tên mới Quý Hương !
03.8. Tuy Trịnh Kiểm đã giết
Nguyễn Uông, nhưng chính sử nhà Nguyễn, kể cả Đại Nam nhất thống chí, quyển về
Thanh Hóa tỉnh, mục nhân vật vẫn chép về Trịnh Kiểm mà không hề có một lời nói
xấu nào về ông tổ họ Trịnh này.
Thật là lạ ! Càng lạ hơn, khi tôi
(1992) về thăm lại quê hương Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan ở Thạch Thất xứ Đoài
(nay thuộc tỉnh Hà Tây) – người được coi là “Trương Tử Phòng” (quân sư Trương
Lương của Hán Cao Tổ) của Trịnh Kiểm. Gia Long rồi Minh Mạng đã ban cho ngôi
nhà thờ Trạng Bùng một bức đại tự chạm trổ rất đẹp với 4 chữ “TRUNG HƯNG CÔNG
THẦN”, miễn sưu dịch cho con cháu Trạng Bùng, lại cho 2 “đinh phụ” được coi sóc
nhà thờ và mồ mả của ông Trạng đã hết lòng “phù Lê phù Trịnh” này.
03.9. Tôi có một số bạn bè họ
Trịnh đã / đang làm cán bộ cao cấp của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tôi đưa
cho họ xem bản Trịnh gia thế phả do Trịnh Cơ vâng lệnh Gia Long, khai
báo lại năm 1802.
Lời mở đầu cuốn gia phả họ Trịnh
này viết rằng khi vua Gia Long ra Bắc (1802), ông đã cho gọi tộc trưởng họ
Trịnh – Trịnh Cơ – từ xứ Thanh ra Thăng Long và phán bảo rằng: - Họ nhà
ngươi và họ ta là hai họ có thâm thù vì tổ họ ngươi đã giết tổ họ ta !
Trịnh Cơ run rẩy nghĩ rằng mình
và họ mình sẽ bị Gia Long “làm cỏ sạch gốc rễ” để trả thù. Nhưng mà không!,
vua Gia Long nói tiếp: - Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng là thông gia –
thân gia. Ta sẽ lấy tình thân gia mà đối đãi với họ ngươi. Song họ ta ở Nam đã
quá lâu, ta chẳng biết rõ gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung khai về gốc gác
họ Trịnh trình cho ta biết !
Trịnh Cơ mang gia phả cũ ra tham
khảo và cứ theo sự thực viết ra (cố GS Hoàng Xuân Hãn rất khen ngợi bản gia phả
nhà Trịnh này là trung thực, đã viết rõ gốc gác nghèo hèn và hành xử “xấu xa”
của Trịnh Kiểm như ăn cắp gà, giết trộm trâu, ăn cắp ngựa…). Đọc xong Gia phả
họ Trịnh, Gia Long đã phê ban cho họ Trịnh 200 mẫu ruộng công để dựng nên Trịnh
điện làm nơi thờ tự các chúa Trịnh (nay làng Trịnh Điện bên bờ sông Mã có
diện tích đúng 200 mẫu, 1 mẫu Trung bộ = 5000m2).
* LỜI TẠM ĐÓNG
Khi còn ở Gia Định và mới chỉ có
Gia Định (châu thổ sông Mê Kông) trước 1801-1802, Nguyễn Ánh – Gia Long đã vận
dụng “cơ chế thị trường” và đã biến Sài Gòn miền Nam thành nơi sản xuất và
xuất khẩu lúa gạo ra toàn Đông Nam Á để đổi lấy các sản phẩm công nghiệp
phương Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu tiên hàng đầu là vũ khí để chống
lại Tây Sơn. Tôi không muốn / không cần bình luận về ý đồ chủ quan của Nguyễn
Ánh, nhưng Nam Bộ cho đến nay vẫn quen với “cơ chế thị trường” hơn miền Bắc. Có
nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò của NGUYỄN ÁNH ?
Tôi đã nhắc đi nhắc lại – làm
rườm tai bạn đọc, nếu bài này được đọc và được in – rằng tôi, kẻ ngu hèn này,
không phải là một nhà Sử học chính tông.
Vậy, theo ý F. Engels vĩ đại, ai
không am hiểu lắm về một lĩnh vực khoa học nào đó mà cứ cố tình “nói chõ” vào
thì có thể được lượng thứ về một số sai lầm không đến nỗi lớn lắm.
Tôi, từ lâu đã rất mê F. Engels,
mượn và có thể là “lợi dụng” mấy lời nói của ông để tạm đóng bài viết có nhiều
phần “dở hơi” này.
Hà Nội – Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh)
Mùa thu tháng Tám, 1996
Thời ông Vượng, viết dù có bạo vẫn fải nói quanh co, tung hứng, đôi khi nhắc Mác, Enghen như thánh minh quan điểm lập trường. Ông Vượng mà nhận không biết sử thì hoá ra đùa dai quá
Trả lờiXóa