Nhân dịp kỉ niệm 225 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, Hoàng đế Quang Trung đánh tan 20 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta (1789), chúng tôi xin giới thiệu bài viết của tác giả Trần Bình Nam, giới thiệu một cách nhìn tương đối toàn diện về vị tướng tài ba Nguyễn Huệ - Quang Trung để bạn đọc hiểu thêm về cuộc đời ông (BBT).
MỘT CÁCH NHÌN TOÀN DIỆN VỀ
NGUYỄN HUỆ -QUANG TRUNG
Trần
Bình Nam
Ghi chú của người viết:
Sử Việt thời đại Tây Sơn không được ghi chép rõ ràng. Vì hai lý do. Thứ nhất,
các sử gia thường ghi theo tài liệu cũ, đôi khi không theo một thứ tự hợp lý;
thứ hai, Tây Sơn là kẻ chiến bại. Sự kiện trong các tài liệu còn lưu lại
thường khác nhau, đặc biệt là về nguồn gốc, dòng họ, và sự phiêu bạc trốn tránh
của vợ con, cháu chắt của dòng họ Nguyễn Tây Sơn. Về công chúa Ngọc Hân, vợ vua
Quang Trung, lịch sử ghi chép về bà khác nhau gần như huyền thoại.
Trong bài viết này tôi chọn dữ kiện nào hợp lý nhất trong nguồn tài liệu giới
hạn tôi có được. Hy vọng sau này sẽ có một Hàn Lâm Viện Việt Nam nghiên cứu và chỉnh đốn lại bộ sử Việt Nam.
**
Lịch sử Việt
có lẽ đã bất công với người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Ông chết sớm, Nguyễn
Quang Toản nối nghiệp chưa được bao lâu thì bị Nguyễn Ánh, vị vua khai quốc của
dòng họ Nguyễn lật đổ. Lăng ông bị đào bới, và cho đến giờ này không còn dấu
vết gì về nơi chôn cất ông tại thành Phú Xuân, bây giờ là thành phố Huế thuộc
tỉnh Thừa Thiên, nơi ông lập nên nghiệp vương.
Nhưng trận đánh lẫy lừng năm 1789 đuổi quân Thanh do tổng đốc Lưỡng Quảng là
Tôn Sĩ Nghị chỉ huy chạy về Tàu không còn một manh giáp, chính thức chấm dứt sự
lệ thuộc Trung quốc đã cho ông một chỗ đứng trong lịch sử Việt Nam, và trong
quân sử thế giới, dù người con và các phụ tá của ông không tiếp tục được sự
nghiệp.
Vua Quang Trung ra đời tại làng Tây Sơn thuộc tỉnh Bình Định năm 1752 và chết
năm 1792, năm năm sau khi lên ngôi hoàng đế tại thành Phú Xuân để danh chính
ngôn thuận mang quân ra Bắc đối diện với đoàn quân xâm lược của Bắc triều. Lịch
sử ghi chép đời sống của ông chỉ toàn trận mạc.Trong suốt 21 năm chinh chiến vó
ngựa của ông rong ruổi bắc nam không mệt mỏi.
Người chép sử
không tránh được một câu hỏi: Vua Quang Trung có một đời sống tình cảm không?
Một con người dũng lược như vua Quang Trung không lẽ chỉ có một mối tình nhuốm
màu sắc chính trị như cuộc hôn nhân của ông với Ngọc Hân công chúa, con gái thứ
chín của vua Lê Hiển Tông. Đời sống tình cảm của ông hẳn phải là phong phú.
Phần phong phú này đã được nhà văn Nguyễn Mộng Giác với ngọn bút tài hoa, một
trí tượng tượng phong phú, và một sự tìm tòi tài liệu công phu đã vẽ nên một
bức tranh làm sống động con người của vua Quang Trung Nguyễn Huệ qua bộ tiểu
thuyết trường thiên “Sông Côn Mùa Lũ” . Đọc sử chúng ta thấy một con người chỉ
biết cưỡi ngựa bắn cung, vào sinh ra tử mà lập nên nghiệp vương. Đọc ‘Sông Côn
Mùa Lũ” chúng ta thấy nơi Nguyễn Huệ một con người rất gần gũi chúng ta. Nguyễn
Huệ có một người thầy, Thầy giáo Hiến cung cấp cái căn bản học vấn cho ông.
Nguyễn Huệ có một mối tình với một thôn nữ, cô An, con gái của thầy, và mối
tình không trọn vẹn này vẫn ấp ủ mãi trong tim của người chiến sĩ tài ba từ
thuở thiếu thời bắt đầu biết yêu cho đến khi nằm xuống.
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã không quên đi sâu vào tâm tư suy nghĩ của hoàng đế
Quang Trung trong những phút mà lịch sử chỉ là một khoảng trống không. Giành
quyền lực với anh là Nguyễn Nhạc cũng không đơn giản là một biểu hiện tham
quyền lực, và có lúc phải giết tướng tá dưới quyền chưa phải chỉ vì thương ghét
thường tình.
Lịch sử ghi năm 1771 ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ khởi
binh tại làng Tây Sơn chiếm thành Quy Nhơn vào thời chúa Duệ Tôn Nguyễn
Phúc Thuần (1765-1777). Thân sinh của Nhạc, Lữ, Huệ là Nguyễn Phi Phúc, vốn họ
Hồ thuộc dòng dõi Hồ Quý Ly, người từng cướp chính quyền trong một thời gian ngắn
dưới đời nhà Trần.Trong cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn, khoảng năm 1653-1657
dòng họ Hồ di cư vào Tây Sơn, nay là xã An Khê, quận Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định,
và đổi thành họ Nguyễn.
Nguyễn Nhạc là
người võ biền, làm biện lại tại vùng Vân Đồn, tính tình phóng khoáng lang bạc,
tiêu hết tiền thuế của Chúa, sơ bị tội nên kéo bè kéo cánh nổi loạn. Năm 1771
Nhạc chiếm Quy Nhơn.
Năm đó Nguyễn
Huệ vừa tròn 19 tuổi và đã chứng tỏ là một người có tài thao lược. Chiếm Quy
Nhơn xong ông giúp Nguyễn Nhạc đánh chiếm Bình Thuận ở phía Nam, Quảng Ngãi ở
phía Bắc. Năm 1774 tướng của chúa Trịnh là Hoàng ngũ Phúc đánh qua sông Gianh
tiến vào Thuận Hóa, chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Quảng Nam, lập Nguyễn Phúc
Dương (cháu gọi Chúa Nguyễn Phúc Thuần bằng chú ruột) lên làm Đông cung giao ở
lại trấn thủ Quảng Nam rồi cùng với một người cháu khác là Nguyễn Ánh lúc đó
mới 12 tuổi, con của người anh thứ hai là Chúa Nguyễn Phúc Côn xuống thuyền
chạy vào Gia Định.
Nguyễn Nhạc cho quân ra liên kết với Nguyễn Phúc Dương đang cố thủ Quảng Nam
chống với quân Hoàng ngũ Phúc, nhưng thất bại. Hoàng ngũ Phúc chiếm Quảng Nam,
quân của Nhạc rút về Quy Nhơn mang theo Đông cung Nguyễn Phúc Dương. Nhạc ép gã
con gái là Nguyễn Thọ Hương cho Nguyễn Phúc Dương. Nhưng Nguyễn Phúc Dương bất
lực, cuộc tình không êm ả, Thọ Hương đau khổ, và sau này Nguyễn Phúc Dương trốn
vào Gia Định với Chúa Nguyễn Phúc Thuần.
Năm 1775 Nguyễn Nhạc chiếm lại được Quảng Nam và lập phòng tuyến chống quân
Trịnh tại đèo Hải Vân phân chia Nam Bắc, quay về đối đầu mặt Nam với quân của
Chúa Nguyễn Phúc Thuần. Từ 1775 đến 1778 Nguyễn Lữ với sự giúp sức của Nguyễn
Huệ hầu như đã bình định được phía Nam. Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc
Dương và tùy tùng đều bị Nguyễn Huệ giết tại Gia Định, trừ Nguyễn Ánh chạy
thoát được ra đảo Thổ Châu.
Thế đã vững, đầu năm Mậu Tuất 1778 Nguyễn Nhạc xưng vương, lên ngôi tại thành
Chà Bàn lấy đế hiệu là Thái Đức, phong Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.
Năm đó Nguyễn Huệ mới có 26 tuổi.
Nguyễn Ánh cũng là một nhân tài và có ý chí sắt đá. Ông tập hợp lại đội ngũ và
tìm kiếm sự giúp đỡ của người Pháp và người Thái Lan để giành lại sự nghiệp.
Năm 1780 Nguyễn Ánh chiếm lại Sài Gòn và xưng vương.Trong khi đó Nguyễn Lữ được
giao phụ trách miền Gia Định là một người không có tài thao lược nên tình hình
vùng Sài Gòn Gia Định không được ổn định. Từ năm 1778 đến năm 1784 Nguyễn Huệ
bốn lần thân chinh vào ra Gia Định đánh tan các đội quân của Nguyễn Ánh cũng
như những đội quân của Pháp (năm 1782) và của Thái Lan (năm 1784) và bình định
được miền Nam. Nguyễn Ánh và đoàn tùy tòng một lần nữa chạy trốn ra đảo Phú
Quốc.
Huệ là thiên tài quân sự. Ông rèn luyện binh sĩ kỹ lưỡng về cả hai mặt chiến
đấu và kỷ luật, sống với binh tướng trong tình anh em chia ngọt sẻ bùi. Lối
hành quân của ông là tốc chiến tốc thắng và bản thân ông lúc nào cũng xông pha
trước mũi tên hòn đạn làm gương cho binh sĩ. Bình định xong miền Nam,
đuổi Nguyễn Ánh ra Phú Quốc, tiếng tăm của Nguyễn Huệ lừng lẫy khắp nơi. Ông
vẫn tùng phục anh là vua Thái Đức nhưng quân cũng như dân thường chờ lệnh ông
hơn lệnh vua, và đó là nguyên nhân hiềm khích giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ.
Tạm bình định miền Nam, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ nhìn về phương Bắc. Sau
hai năm chuẩn bị binh mã, giữa năm 1786 Nguyễn Huệ xuất quân đánh Thuận Hóa của
quân Trịnh sau khi do tin tức tình báo Nguyễn Hữu Chỉnh thu lượm được biết rằng
miền Bắc đang có rối loạn chính trị. Nguyễn Hữu Chỉnh là mưu sĩ Bắc Hà. Sau nạn
kiêu binh 1775 -76 Chỉnh bỏ trốn vào Quy Nhơn quy thuận Nguyễn Nhạc và đưa ra
chính sách phù Lê diệt Trịnh.
Đoàn quân Bắc tiến do Nguyễn Huệ chỉ huy, có Nguyễn Lữ, Vũ Văn Nhậm và Nguyễn
Hữu Chỉnh phụ tá theo hai đường thủy bộ vượt qua đèo Hải vân đánh vào Thuận
Hóa. Đoàn thủy quân của Nguyễn Lữ tiến thẳng ra Quảng Trị và Quảng Bình
để tạo bất ổn sau lưng quân chúa Trịnh. Tướng trấn thủ Thuận Hóa là Hoàng đình
Thể tử trận, Thuận Hóa thất thủ. Quảng Trị và Quảng Bình cũng thất thủ theo.
Huệ giao cho anh là Nguyễn Lữ ở
lại trấn thủ Thuận Hóa, còn mình và Nguyễn Hữu Chỉnh được đà kéo quân ra Bắc.
Chỉnh theo đường thủy, Huệ dẫn đại bộ phận bộ binh, hẹn nhau tại Nam Định trước
khi tiến vào Thăng Long. Cuộc Bắc tiến lần này của Nguyễn Huệ không nằm trong
chương trình định trước của Nguyễn Nhạc nên Huệ đệ sớ về Quy nhơn xin phép anh
rồi lên đường ngay.
Hơn một tháng
hành quân, tháng 6 năm 1786 Nguyễn Huệ tiến quân vào Thăng Long. Chúa Trịnh
Khải tự tử. Trước khi vào Thăng long Huệ cho người mật tấu với vua Lê Hiển Tông
rằng cuộc hành quân của ông nhắm phù Lê diệt Trịnh. Mặt khác lúc này vua Lê
đang bệnh nặng nên muốn rời thủ đô cũng không được nên vua Lê đành phó thác cho
định mệnh.
Huệ vào thành
đến ra mắt vua theo cung cách quần thần làm cho vua tôi Lê Hiển Tông rất hài
lòng. Vua phong chức nguyên súy cho Nguyễn Huệ và do mai mối của Nguyễn Hữu
Chỉnh, vua gã con gái cưng thứ chín là Ngọc Hân công chúa, 16 tuổi, một thiếu
nữ tài sắc vẹn toàn cho Nguyễn Huệ. Một tháng sau vua qua đời. Nguyễn Huệ phò
Lê Duy Kỳ lên nối ngôi lấy đế hiệu là Chiêu Thống.
Ở Quy Nhơn,
nhận được sớ của Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc rất lo lắng vội vàng dẫn một đoàn 500
tinh binh nói là đi tiếp ứng, ngày đêm ra Thăng Long để kềm chế ông em.
Đến Thăng Long
vua Thái Đức ra mắt vua Chiêu Thống và thân hành đi phủ dụ các nơi. Đầu năm
1787 Nhạc và Huệ rút về nam, giao triều chính cho vua Lê Chiêu Thống và bỏ lại
Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Huệ biết Nguyễn hữu Chỉnh là người tráo trở nên không
tin.
Biết nguy nếu
ở lại một mình, Nguyễn Hữu Chỉnh ngày đêm chạy theo đoàn quân của Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ và đến Nghệ An thì bắt kịp. Huệ sắp xếp Chỉnh ở lại giữ Nghệ An nói
là để đề phòng miền Bắc, bên cạnh có Vũ Văn Nhậm giữ mặt quân sự. Tiến thoái
lưỡng nan. Chỉnh bắt đầu tạo dựng cơ sở và thanh thế tại Nghệ An chờ đợi thời
cơ.
Trở về Quy
Nhơn Nguyễn Nhạc chia trách nhiệm cho hai em, phong Lữ làm Đông Định Vương toàn
quyền ở Gia Định, phong Huệ làm Bắc Bình Vuơng toàn quyền phía bắc đèo Hải Vân.
Nguyễn Nhạc là Trung ương Hoàng đế đóng đô ở Quy Nhơn.
Thời cơ của
Nguyễn Hữu Chỉnh tới khi tại thăng Long vua Chiêu Thông không có cơ sở quyền
lực, họ Trịnh do Trịnh Bồng cầm đầu lại trổi dậy thiết lập lại ngôi chúa và
tiếp tục uy hiếp nhà vua như xưa. Vua Lê cho người vào Nghệ An mời Chỉnh ra
Bắc.
Chỉnh
kéo quân ra Thăng Long, dẹp Trịnh Bồng và thu tóm tất cả binh quyền trong
tay.Vào thời gian này tin mật báo từ Thuận Hóa cho Chỉnh biết anh em Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ bất hòa trầm trọng có thể xẩy ra binh biến nên Chỉnh định lợi
dụng cơ hội phản Tây Sơn. Chỉnh liên kết với Nguyễn Hữu Duệ, một cựu tướng
trung thành với Nguyễn Nhạc lúc đó đang trấn giữ Nghệ An. Được tin, Nguyễn Huệ
sai Vũ Văn Nhậm từ Thuận Hóa kéo quân ra chiếm lại Nghệ An và thẳng đường ra
Bắc trị tội làm phản của Chỉnh. Duệ bỏ Nghệ An dùng đường thủy chạy thẳng vào
Quy Nhơn nhờ Nguyễn Nhạc che chở.
Vào những ngày
cuối cùng của năm 1787 quân của Nhậm tiến như vũ bão ra Bắc, quân của Chỉnh
thua trên mọi phòng tuyến, Chỉnh mang vua Lê Chiêu Thống bỏ thành Thăng Long
chạy trốn. Chỉnh bị bắt và bị Vũ Văn Nhậm giết vào tháng 11 năm 1787.
Vũ Văn Nhậm hợp cùng với Ngô Văn
Sở , một người thân tín nhất của Nguyễn Huệ kêu gọi sự hợp tác của quan lại còn
trung thành với nhà Lê và vội vàng tổ chức lại triều chính miền Bắc. Nhậm
lo việc võ, Sở lo việc văn. Nhậm là tướng tài nhưng không may. Ông là tướng
dưới trướng của Nguyễn Huệ từng vào sinh ra tử với nhau, nhưng lại là con rể
của Nguyễn Nhạc, nên sau vụ Nguyễn Hữu Duệ theo Chỉnh làm phản, Huệ rất lo lắng
về Nhậm. Khi sai Nhậm ra Bắc dẹp Chỉnh Nguyễn Huệ dặn dò Ngô Văn Sở theo dõi và
khẩn báo cho ông mọi dấu hiệu khả nghi của Vũ Văn Nhậm.
Tạm ổn định
miền Bắc, Nhậm tỏ ra kiêu ngạo và coi thường bên phía quan văn làm cho Ngô Văn
Sở bất mãn báo cáo với Nguyễn Huệ rằng Nhậm muốn làm phản. Chỉ chờ có vậy
Nguyễn Huệ ngày đêm cùng một đoàn tinh binh thần tốc ra Bắc và trong đêm
ập vào bắt giết Vũ Văn Nhậm không cho Nhậm một lời giải thích. Sau đó Nguyễn
Huệ tức tốc về Nam
giao mọi binh quyền cho Đại tư mã Ngô Văn Sở. Nguyễn Huệ không dám bỏ thành
Thuận Hóa lâu sợ có biến. Đó vào năm 1788. Vũ Văn Nhậm là nạn nhân của vụ tranh
chấp quyền hành giữa hai anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ.
Trong khi đó
vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu. Tổng đốc Quảng Đông, Quảng Tây (Lưỡng
Quảng) là Tôn Sĩ Nghị lợi dụng cơ hội dâng sớ lên vua Càn Long đề nghị mang quân
qua chiếm Đại Việt lấy cớ giúp nhà Lê. Vua Càn Long chuẩn phê. Tôn Sĩ Nghị đích
thân dẫn 200 ngàn quân theo ba đường Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang tiến vào
Bắc Việt. Cuối tháng 11 năm 1788 đại quân của Tôn Sĩ Nghị vào thành Thăng Long
bỏ ngỏ. Ngô Văn Sở rút quân lui giữ phòng tuyến nơi núi Tam Điệp ranh giới của
hai tỉnh Thanh Hóa – Ninh Bình rồi khẩn báo về Phú Xuân.
Được tin, Bắc
Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy đế hiệu là Quang Trung rồi kéo quân
ra Bắc. Vua Quang Trung cho lính chia từng toán 3 người, dùng võng hai người
gánh một, thay phiên nhau dùng lương thực khô, bôn tập không ngừng nghỉ. Chỉ 5
ngày đại quân của vua Quang Trung đã đến Nghệ An. Vua Quang Trung cho binh sĩ
nghỉ ngơi ăn Tết (Kỷ Dậu 1789) trong khi cùng các tướng lãnh bàn kế hoạch trước
khi tiến quân ra Bắc.
Vào những ngày
đầu Xuân quân của Tôn Sĩ Nghị bị đánh bất ngờ vào phòng tuyến trấn giữ mặt nam
của Thăng Long là đồn Hạ Hồi, rồi sau đó đồn Ngọc Hồi, và vào ngày mồng 5 Tết
Kỷ Dậu quân của vua Quang Trung kết thúc cuộc đại phá quân Thanh tại gò Đống Đa
buộc tướng Tàu là Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử.
Thắng quân Thanh, vua Quang Trung
biết thế nước nhỏ giảng hòa với vua Tàu, và được vua Càn Long phong làm An Nam
quốc vương, chính thức sự cao chung của nhà Hậu Lê kéo dài 363 năm (1426 –
1789).
Theo sử, vua
Quang Trung có ý cầu hôn với con gái vua Càn Long để làm thế tạo lập hòa bình
lâu dài và đòi lại đất Lưỡng Quảng vốn thuộc Đại Việt. Nhưng mộng không
thành. Ngày 19 tháng 7 năm Nhâm Tí (1792) vua Quang Trung bị bạo bệnh qua đời.
Con là Nguyễn Quang Toản nối
ngôi, đế hiệu Cảnh Thịnh. Nhưng Toản còn quá nhỏ, các đại thần ghen ghét nhau,
chính sự thối nát nên không phải là đối thủ của Nguyễn Ánh. Chín năm sau khi
vua Quang Trung mất, Nguyễn Ánh, sau nhiều trận thư hùng, ngày 15 tháng 6 năm
1801 kéo quân vào thành Phú Xuân, Quang Toản chạy ra Bắc. Năm 1802 Nguyễn Ánh
thân chinh ra Bắc kết thúc nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước từ ải Nam Quan đến
mũi Cà Mâu, lên ngôi hoàng đế lấy vương hiệu là Gia Long mở đầu vương nghiệp
của triều Nguyễn kéo dài 143 năm (1802-1945).
Qua lịch sử
ghi chép, đời của vua Quang Trung là một đời làm tướng xông pha trận mạc trong
suốt 21 năm liền từ năm 1771 cho đến ngày ông qua đời. Nếu không có áng
văn Ai Tư Vãn bất hủ của Ngọc Hân Công chúa khóc chồng có lẽ không ai tưởng
tượng được Nguyễn Huệ cũng có một đời sống tình cảm mãnh liệt và phong phú đầy
nhân tính. Đối với Ngọc Hân, trong vinh quang của kẻ chiến thắng – nghĩa là có
quyền chiếm đoạt - Nguyễn Huệ không quên cái thổn thức và lo âu của nàng quận
chúa nhỏ bé. Chàng từ tốn, thông cảm và độ lượng, và chính cái phút ban đầu đó đã
mở lối cho cái thế giới kỳ bí của tình yêu nơi tâm hồn trong trắng hoang dại
của công chúa Ngọc Hân.
Nhà văn Nguyễn
Mộng Giác ghi: “Đêm hợp cẩn … Khi nguyên súy Nguyễn Huệ vào, Ngọc Hân sợ quá
không dám ngước nhìn lên, cũng không dám thở mạnh. Trước mắt công chúa, đôi hài
thêu của nguyên súy khẽ lay động. Ngọc Hân chờ, nín thở mà chờ. Thật lâu Nguyễn
Huệ không nói gì cả. Công chúa tự biết không thể cứ cúi đầu mãi thế này! Phải
ngước lên mĩm cười với nguyên súy. Phải giúp người “xếp bào cởi giáp” như những
người vợ hiền trong cổ thư đã làm. Phải … phải cung kính ngoan ngoãn “tay nâng
ngang mày” như nàng Mạnh thị. Dù có nghĩ vậy công chúa vẫn không có can đảm
ngước lên nhìn thẳng vào khuôn mặt nguyên súy.
Bỗng đôi hài trước mắt Ngọc Hân hơi xoay hướng, như dợm bước về phía cửa phòng.
Nhưng sau đó, đôi hài vẫn bất động. Rồi đột nhiên Ngọc Hân cảm thấy có một bàn
tay đặt lên vai mình. Nguyên súy đặt yên bàn tay lên vai công chúa một lúc, rồi
bóp nhẹ lên cái vai mềm. Bàn tay mơn man ve vuốt khắp vai bên phải, rồi vuốt
nhẹ lên chiếc cổ trắng. Công chúa hồi hộp liếc nhìn, trong hoảng hốt chỉ nhận
ra được ống tay áo gấm đỏ và một bàn tay gân guốc da ngăm.
Ngọc Hân xúc động đến nghẹn thở, hoang mang. Lúng túng chưa biết phải làm gì,
nói gì. Đúng lúc đó, bất ngờ nguyên súy quì chân xuống trước sập, úp mặt vào
hai đầu gối của công chúa. Ngọc Hân không ngờ nguyên súy làm như vậy, đôi tay
chới với không biết phải làm gì, phải đặt vào đâu. Mái tóc dày và quăn phủ lên
vạt áo lụa của công chúa. Một sức mạnh huyền bí xa lạ thôi thúc, khiến công
chúa đưa tay ôm lấy vai nguyên súy.
Nguyễn Huệ ngửng lên vui mừng, và lần đầu tiên, công chúa bị cuốn hút vì ánh
nhìn đam mê đến cuồng nộ của vị danh tướng vừa làm đảo lộn Bắc hà.
Nguyễn Huệ nhìn đăm đăm vào khuôn mặt sượng sùng thảng thốt của công chúa,
miệng mĩm cười gượng gạo như cách cười của một kẻ phạm tội, nói nhỏ nhỏ:
- Công chúa còn nhỏ quá, và
đẹp quá. Như một cái bông búp. Đừng lo âu. Ta biết công chúa đang lo âu đủ
điều. Ta sẽ không cho phép ai, dù là quỉ thần, được làm công chúa khổ. Công
chúa hãy yên tâm” (Sông Côn Mùa Lũ, tập 3, trang 1399 – 1400)
Không có tình
yêu của Nguyễn Huệ, Ngọc Hân công chúa không thể xây dựng nổi tuyết tác văn
chương ghi lại thiên tình sử của bà mà khởi đầu chỉ là một hôn nhân chính trị.
Thương khóc chồng, Ngọc Hân công
chúa viết:
…………………..
Nửa
cung gẫy phím cầm lành,
Nỗi
con côi cút, nỗi mình bơ vơ!
Nghĩ
nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc,
Tiếng
tử quy thêm dục lòng thương
Não
người thay, cảnh tiên hương,
Dạ
thường quanh quất, mắt thường ngóng trông
Trông
mái đông: lá buồm xuôi ngược
Thấy
mênh mông những nước cùng mây
……………………
(Ai Tư Vãn)
Và nhà văn
Nguyễn Mộng Giác đã tô điểm thêm cho người dũng tướng thành một trang tuấn kiệt,
với một quả tim của một người biết yêu và trân trọng cái gì mình yêu quý của
tuổi thanh xuân chưa vương hệ lụy của chính trị và cuộc đời.
Trước Ngọc
Hân, Nguyễn Huệ đã yêu cô An con gái của thầy, và An cũng yêu Huệ tha thiết.
Nhưng mộng ước cả hai không thành vì Nguyễn Nhạc muốn Huệ phải lấy em gái của
hai phụ tá thân tín của mình là Hình bộ thượng thư Bùi Văn Nhật và Thái sư Bùi
Đắc Tuyên để củng cố thế lực. Huệ miễn cưỡng lập gia đình theo lệnh anh, nhưng
Nguyễn Huệ không quên được mối tình thôn dã với người thiếu nữ yêu kiều. Nhà
văn Nguyễn Mộng Giác thi vị hóa “cái phút ban đầu lưu luyến ấy”:
“Cho đến
ngày Huệ gặp An. Điều ghi dấu trong cảm quan của cậu, khíến cậu gần như sững
sờ, là cái dáng điệu uyển chuyển, nhịp nhàng , linh động của An. Từ cách đưa
ngón tay út lên vén nhẹ một mảng tóc lòa xòa, cho đến cách đưa lưỡi liếm nhẹ
lên môi trên, cách rót một tách nước trà, cách gật nhận một lời chỉ bảo, tất
cả, tất cả đều vừa độ cần thiết. Cử chỉ biểu lộ sự thân mật dịu dàng, đồng thời
cũng giữ riêng cho An một sự bí mật tôn nghiêm. Huệ chưa từng bao giờ gặp sự
hòa dịu như vậy giữa hai đòi hỏi gần như mâu thuẫn là sự cởi mở thân tình và sự
gói ghém kiêu hãnh nơi một người con gái. Cậu cũng ngạc nhiên khi thấy cái dáng
điệu trang nhã thân mật ấy còn giữ nguyên nét thơ trên khuôn mặt. Nước da ửng
sáng trên đôi má bầu bĩnh. Cái môi trên mọng. Chỉ trừ đôi mắt buồn trước tuổi.
Huệ nghĩ có lẽ nhờ đôi mắt ấy mà khuôn mặt và cử chỉ của An hòa hợp nhau, tiết
ra một sức mạnh hấp dẫn lạ lùng. Cậu đau khổ công nhận giữa cái đẹp xa lạ
ấy và mình có một hố cách biệt trang nghiêm; cậu không thể nói gì thêm,
không thể phác một cử chỉ nhỏ, vì bất cứ hành động nào của cậu cũng trở thành
vụng về, thừa thải trước vẻ đẹp toàn bích ấy. Và lần đầu tiên trong đời, cậu
thấy lúng túng, thất vọng cho sự vụng dại của mình.” (Sông Côn Mùa Lũ, tập
1, trang 156).
Người anh hùng
áo vải của chúng ta bắt đầu biết thế nào là rung động của con tim, một rung
động mà trong suốt hành trình hơn 20 năm còn lại của cuộc đời Huệ không tìm lại
được qua mối hôn nhân chính thức với phu nhân họ Bùi và mối tình vương giả với
Ngọc Hân công chúa. Để giữ hơi ấm của mối tình dang dỡ Nguyễn Huệ đã mang theo
bên mình người em trai của An trong suốt cuộc đời chinh chiến để bầu bạn và
cũng để tâm sự.
Và quả
tim của An cũng thao thức không kém trước hấp lực tình yêu của Huệ. Huệ
đến thăm thầy, và dùng dằng nửa ở nửa về. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác viết:
“An bẽn lẽn đứng chờ Huệ ra về
để khép cổng lại. Tấm cửa đan bằng cây rừng tua tủa những gai khép hẹp, chừa
không đủ một người lách qua. An lại vô ý nắm chặt lấy cánh cổng. nên thay vì
tiễn khách, cô lại vô tình lưu khách. Huệ không hiểu An muốn mình về hay mình
ở, tần ngần chưa muốn hỏi. Mấy cái lá dại tội nghiệp ở hàng rào chắc ngỡ ngàng
không hiểu vì đâu cô chủ nhà không nói năng gì, cũng không dám cười, mấy ngón
tay ấm mềm cứ bứt hết lá này đến lá khác thả vung vãi xuống lối đi. An nói nhỏ:
Trời hôm nay lạnh dữ.
Huệ nói:
Ờ lạnh. Gió lớn quá
Không khéo lại bão.
An tưởng thế? Chưa đâu.
Huệ trỏ những đám núi vây
quanh, bảo An:
Sắc núi còn thẫm lắm. Khi nào
rừng bắt đầu thay lá …
An không nghe Huệ nói, bâng quơ
tự nhủ mình:
Em sợ bão
Huệ cười nhỏ, nhìn mái
tóc cuốn gọn để lộ khuôn mặt trái xoan thanh tú, hai cái tai nhỏ và chiếc cổ
trắng của An, cố lấy can đảm nói:
Khi nào gió mạnh đến nỗi thổi
tung được mái tóc An, may ra mới có dấu bão lớn. Lúc đó, lúc đó … đáng tiếc lắm
…
Anh không hiểu, ngửng đầu lên
hỏi:
Sao vậy anh?
Đôi má ửng hồng, vài sợi tóc
mai bay vướng víu. Huệ không dám nói hết ý mình, tìm cách tránh đi.
Vì khối nhà chói sẽ bị đổ.
An biết Huệ nói dối, nhưng
không thể tìm hiểu ý thật. Cô chỉ lờ mờ đoán ý Huệ nói bóng gió điều gì liên
quan đến khuôn mặt mình, vì nhiều lần Huệ chăm chăm nhìn vào đôi mắt cô. Bất
giác cô đưa tay lên quẹt má.” (Sông Côn Mùa Lũ, tập 1, trang 329 -330)
Mối tình đẹp đầu đời sống mãi trong quả tim của người anh hùng cũng như trong
lòng cô thôn nữ. Rồi người thôn nữ gạt lệ đi lấy chồng. Và khi chồng cô
phản bội phải tội tử hình Nguyễn Huệ có thế lực mà không tha tội chết được là
nổi đau khổ lớn lao nhất của An cũng như của Huệ. Cuộc sống thật là một nan đề,
và An cảm thấy mình như chiếc lá giữa dòng định mệnh. Cái làm cho cô còn tin
tưởng để sống là cô biết mình được yêu và hình bóng mình được ấp ủ một cách
trang nghiêm trong quả tim của vị dũng tướng.
Sau chuyến hành quân diệt Trịnh
năm 1787, Nguyễn Huệ đưa công chúa Ngọc Hân về Thuận Hóa, và thời gian cho An
biết Huệ đã có được tình yêu bên cạnh Ngọc Hân, cái tình yêu mà Huệ muốn mà
không thể trao cho nàng, và chưa bao giờ dành cho hoàng hậu họ Bùi, người vợ
chính thức của chàng. Nàng sung sướng thấy như mình được yêu.
Bởi thế cái phút đau đớn nhất cho đời An đã đến khi Nguyễn Huệ yểu mệnh năm 40
tuổi sau một cơn bạo bệnh, sau sáu năm chàng có hạnh phúc với vị công chúa họ
Lê tài hoa, Ngọc Hân công chúa. Dù con trai phản đối An cũng không quản gian
lao từ Bến Ván, vùng đất phân ranh giữa hai quyền hành Phú Xuân và Quy Nhơn,
vượt đèo vượt núi ra Thuận Hóa để được nhìn tang lễ của chàng.
Nhà văn Nguyễn
Mộng Giác thuật: “Hôm di quan lên sơn lăng, An ở trong đám dân chúng nghèo
khổ tự nguyện nối đuôi đám tang để tỏ lòng ái mộ và thương tiếc vị anh hùng dân
tộc xuất thân áo vải như họ, người mang đến cho họ niềm tự tín và hy vọng,
người dạy cho họ ngửng đầu cao, mạnh dạn bước tới. An cùng lâm râm cầu nguyện
như họ. Chỉ khác một điều là những gì An thì thầm đều có tính cách riêng tư và
rối rắm khó hiểu. Chị thầm nhắc lại một trận bão rừng, chuyện hiểu lầm chung
quanh cây gạo, tập thơ Đổ phủ, đêm ngập ngừng bảo nhỏ “đừng anh Huệ ạ! …”. An
đặt nhiều câu hỏi mà không cần đáp, càng hỏi càng xót xa, cảm thấy lẻ loi. An
oán trách mà như sợ phật lòng người nghe, vừa thầm hờn dỗi đã hối hận, nhận
lãnh hết phần lỗi về mình. Quanh An người ta thở dài, người ta thì thào. An
không nghe gì cả. An sống và chết riêng lẻ trong thế giới của chị.” (Sông
Côn Mùa Lũ, tập 4, trang 1985)
Với lời tiễn
biệt trong câm nín của An, vua Quang Trung, nếu linh hồn còn lãng đãng đâu đó
sẽ thanh thản ra đi. Lịch sử sang trang, ân đền oán trả. Giờ đây không còn vết
tích gì của người anh hùng trên vùng đồi núi hữu ngạn sông Hương, nơi ôm hình
hài của vua Quang Trung trong một thời gian 10 năm ngắn ngủi. Năm 1802 vua Gia
Long cho khai quật mồ mả và phá hủy toàn bộ dấu vết của vua Quang Trung.
Mỗi lần
về Thuận Hóa thăm viếng vùng Nam Giao, Ngự Bình và núi Thiên Thai, đặt
chân trên những ngọn đồi đầy hoa sim và hoa ngũ sắc không ai quên được nơi đây
từng là chỗ tranh hùng của hai dòng họ Nguyễn tài giỏi như nhau, chí lớn như
nhau, nhưng không thể cộng tồn, và không khỏi bâng khuâng tự hỏi giờ đây linh
khí người đệ nhất anh hùng áo vải đang tụ nơi đâu.
(Trần Bình Nam)
Có một chi tiết HY thắc mắc về ba anh em Nguyễn Tây Sơn khi đọc bài viết này. Đó là thứ tự ba anh em. Trong hiểu biết trước giờ của HY vẫn là Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ. Nhưng trong bài này lại là Nhạc - Lữ - Huệ: "Huệ giao cho anh là Nguyễn Lữ ở lại trấn thủ Thuận Hóa ...".
Trả lờiXóaVề bản thân Quang Trung - Nguyễn Huệ, ông đích là một anh hùng dân tộc toàn tài. Một con người mạnh mẽ quyết đoán trong hành động, có trí tuệ sáng suốt nhạy bén, có tầm nhìn xa rộng, và đặc biệt là có tài dùng binh như thần. Chỉ cần nói về cuộc hành binh thần tốc Tết Kỷ Dậu 1789 là đủ làm ví dụ. Xuất binh từ Phú Xuân ngày 25 tháng chạp, mồng 5 Tết vào Thăng Long. Trung bình quân Tây Sơn mỗi ngày hành quân đi bộ gần 60 km, vừa hành quân, vừa tuyển quân, vừa đánh giặc (đánh đẹp, bất ngờ và áp đảo). Linh hồn của cuộc hành quân thần tốc và những chiến công lẫy lừng chính là Quang Trung.
Chiến thắng Tết Kỷ Dậu mãi khiến chúng ta kinh ngạc.
Còn đời sống tình cảm của Nguyễn Huệ? Nếu cho rằng những dòng văn của Nguyễn Mộng Giác có thể là hư cấu của Tiểu thuyết, ta chỉ cần đọc Ai tư vãn của Ngọc Hân công chúa là đủ.
Phải là người có mối tình tha thiết mặn nồng lắm với Công chúa, Nguyễn Huệ mới khiến nàng có tình yêu chân thật và cảm xúc tột cùng để viết những dòng thống thiết bi thương đến nhường ấy!
(Hải Yến)
Ông Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Các tài liệu không hoàn toàn thống nhất về thứ tự của ba người con này, chỉ biết Nguyễn Nhạc là anh cả, còn Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ không rõ ai lớn hơn ai. Có tài liệu nói Nguyễn Lữ là người con thứ 3 và là con trai út (thầy Tư Lữ), có tài liệu cho ông là người con trai thứ 6 (Đức ông Bảy).
XóaCòn chuyện tình của Nguyễn Huệ cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có tài liệu nói Nguyễn Huệ mắc bệnh bạo dâm.
Ngọc Hân công Chúa với Ai Tư Vãn đi vào huyền thoại dân gian và sau này thể hiện qua Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác như một bản Tình Ca bất hủ .
Từ lịch sử chuyển sang văn học dĩ nhiên có một đứt đoạn được bù khuyết bằng cái gọi là “ hư cấu ” . Nếu người viết sử ít nhiều còn dè dặt trách nhiệm , băn khoăn về sự đúng sai của sử liệu thì nhà văn tự vịn vai hai chữ “ sáng tác ” để viết gì thì viết .
Đó là chỗ khúc mắc chưa được giải đáp nên mới có câu chuyện nhà văn Trần Vũ nhân đọc Sông Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác thấy các nhân vật Nguyễn Huệ – Ngọc Hân , cô An , ông thày giáo “ tròn quá , toàn bích quá ” . Trần Vũ thấy “ ngứa ngáy , khó chịu mới viết truyện "Mùa mưa gai sắc" như một “ viết ngược ” lại tác giả ” Sông Côn mùa lũ “ ?
Trong ” Mùa mưa gai sắc ” của Trần Vũ , ông đã “ biến tướng ” Ngọc Hân công chúa “ lá ngọc cành vàng ” thành một thiếu phụ “ sẵn sàng tự cởi xiêm y cho mục đích làm ” – một kẻ đối đầu với kẻ thù đã ám hại dòng họ nhà Lê – bằng một bút pháp sắc bén như dao, lạnh lùng và tàn bạo . Dưới ngọn bút của Trần Vũ , Huệ không hơn không kém chỉ là một kẻ bạo dâm .
Trần Vũ cũng có cái lý của nhà văn . Lẽ thường tình cho thấy có lý nào Ngọc Hân lại dễ dàng “ dâng hiến ” cái tiết trinh tuổi 16 và quên nỗi nhục cho kẻ đã chiếm đoạt và hạ nhục cả dòng họ Lê ? Có thể nào có một mối tình “ đẹp như tiểu thuyết ” giữa hai kẻ đáng nhẽ phải coi nhau như kẻ thù ?
Ngọc Hân chẳng lẽ không nhớ cái cảnh gia đình tan nát vì “ tiếm quân ” Tây Sơn sau đây :
“ Chẳng những thế Tây Sơn còn cho giết bào đệ vua Chiêu Thống khi đánh nhau với Tây Sơn . và Hơn thế nữa , khi mẹ vợ của ông bị điệu về triều đình , ông đà trách mắng bà thậm tệ vì mối cảm tình của bà đối với Đốc Chiêm . Số vàng do bà cấp cho Đốc Chiêm phải vào tay ông . Cuối cùng ông ra lệnh xử trảm vị tướng này ngày 1 tháng 6 ” .
Trích Những tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ , Đặng Phương Nghi , TSSĐ số 9-10 , trang 209 .
Chẳng lẽ những truyện “ tàn độc ” của Nguyễn Huệ đối với vua Lê , Ngọc Hân công chúa đều không biết ?
Chỗ nào là sự thật lịch sử và chỗ nào là cái lý lẽ thế nhân thường tình ?
Hãy đọc một trích đoạn lối viết ngược của Trần Vũ cho biết :
Xóa“Đêm ở phủ Chúa , Huệ bước chân lên lầu Tử Các , lòng âm ỉ cơn say . Sống với Huệ hơn một tháng , Ngọc Hân đã biết những thói quen chung chạ của Huệ. Thói quen của chứng bệnh thường thấy đi kèm với bệnh cuồng sát . Lẳng lặng , tự nguyện , không đợi Huệ bắt , nàng cởi xiêm áo đến quỳ trước chân giường . Cái liếc mắt của Ngọc Hân ném về phía Huệ sắc đến nổi gai . Huệ lấy roi , không phải dây đai của đêm hợp cẩn , mà là thứ roi gai của quản tượng dùng quất voi khi lâm trận . Ngọc Hân uốn lưng đợi , tóc xõa chảy xuống nền đá , không trang sức , không cả chiếc vòng kiềng cổ truyền của con gái Bắc Hà , chỉ dấu thẹo đỏ do sắt nung ở vai . Vết thẹo đã lên da non nhưng đoán được dấu tỉ ấn của Huệ . Hai ba tấm màn gấm dụ buông quanh chỗ Ngọc Hân quỳ , Huệ tiến tới một bước , hai bước , rồi vung tay quất . Đâu roi vút tiếng rít như rạch tấm màn gấm . Ngọc Hân oằn người bấu cứng lấy trụ giường . Huệ đã say máu , những chấm máu li ti tím bầm nổi trên lưng Ngọc Hân trông như những vết ong đốt , hay những giọt mực son rỏ trên lên vũng sữa . Huệ vung tay tới tấp” .
Đây là truyện ngắn mà người viết bài này đọc đến ngỡ ngàng , thích thú và trân trọng .
Phải chăng cũng một cung cách ấy mà Nam Dao trong tập truyện dài lịch sử lấy bối cảnh triều Tây Sơn trong cuốn Gió Lửa ?
“ Đêm hôm đó , để mặc Huệ dày vò , đánh đá trong một cuộc truy hoan trước khi viễn chinh . Hân vừa rên rỉ vừa thì thào “ nữa đi , nữa đi ” như thách thức , dầu chỉ tưởng đến cái cơ nghiệp nhà Lê để quên nỗi đau của thể xác ” .
(trích từ nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Lục, đề tài: "Nhìn lại sử liệu viết về Nguyễn Huệ Quang Trung" đăng trên Nghiên cứu lịch sử.com.
Có một nhà Nho Việt Nam thời Lê là Trần Danh Án đã làm một bài thơ "Tây Sơn hành", miêu tả đêm tân hôn Nguyễn Huệ- Ngọc Hân, được mệnh danh là "đệ nhất dâm thi". Thật ngạc nhiên các nhà Nho đạo mạo ngày xưa đã phóng bút mô tả cuộc giao hoan ghê gớm như thế. Trong website của Nhà văn Nguyễn Xuân Hưng đã giới thiệu tóm lược bài thơ này, có cả bản chữ Hán, giải nghĩa và 2 bản dịch, trong đó có bản dịch của Nguyễn Xuân Hưng. Bạn nào giỏi chữ Hán thì tham khảo cả phần nguyên bản. So với bản dịch của Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương, thì bản dịch của ông Dương gò gẫm hơn, bản dịch của Nguyễn XUân Hưng phóng túng hơn. (http://nguyenxuanhung.com/page/detailinfo/idc/10/id/165/ban-dich-bai-tho-tay-son-hanh.html)
Trả lờiXóaSau đây là bản dịch Tây Sơn hành, đệ nhất dâm thi, qua dịch của Nguyễn Xuân Hưng
Bài dịch của Nguyễn Xuân Hưng:
Tây Sơn hành
Nước thanh bình hai trăm năm lẻ
Đây nàng công chúa trẻ cấm cung
Gối êm nệm ấm rèm buông
Mộng hoa mơ bướm tình vương tơ lòng
Phải đâu không có anh hùng
Sánh đôi dệt tấm tình chung với nàng?
Mà cám cảnh hoa vàng bướm vắng
Gái có thì, xuân lặng lẽ trôi…
*
Bỗng đâu trống trận vang trời.
Chiến binh đánh thốc tận nơi kinh thành.
Thôi thôi thế cũng đành thời thế
Tướng với quân chạy lẹ một hơi.
Mày râu mấy lũ người rơm
Tướng quan giá áo túi cơm thôi mà
Mưu quan mới dâng hèn một kế
Gán con vua cho chúa Tây Sơn.
Rình rang rước lễ cầu hôn
Đón dâu phù rể hết hồn dân đen
Phu khiêng kiệu, phu rước đèn
Ngựa xe như nước, người lên như rừng.
*
Chàng rể cũng anh hùng nhất khoảnh.
Cô dâu không dám ngoảnh nhìn ra.
Tiếng nghe trọ trẹ khác ta
Tóc thì quăn tít, mà da đen xì.
Đầu chàng đội khăn gì vàng óng
Quần sơn trang không ống buông ra
Lộ ngay một vật ối a
Như là chân nữa thứ ba của người
Khi tĩnh tại như ngôi thượng toạ
Khi động lên thiên hạ thất kinh.
Nguời đâu phong cách nhà binh
Như hổ như gấu vồ kinh con mồi.
Nhũ hoa nõn áo đòi xé tuốt
Đùi non tơ váy tuột tơi bời
Dùng luôn chân giữa đâm người
Hiên ngang chọc tới vào nơi cửa trời
Hoa tan nát vì chim điên tới
Chim tưng bừng phơi phới vì hoa.
Mành then lớp lớp mở ra
Khói lò hương bốc, mây xa mưa gần
Mồ hôi túa, mắt môi rậm rật
Điệu chày khua nhịp trận vung vinh.
Váy tơ rớt giọt hồng trinh
Tình xuân thiếu nữ thình lình trôi qua
*
Tự thời nào cửa hoa khép kín
Nay bỗng nhiên mở khuyết cửa người
Còn đâu ngọc thể rạng ngời
Chỉ còn méo mó một nơi giày vò
Gọi a hoàn bưng cho một chậu
Tuôn rào rào nước giữa hai chân
Đầm đìa mấy cuộc trao thân
Mệt nhoài tơ liễu nát tan cây đời
Hoa nào chịu gió trời thấm lạnh
Nụ nào ưng mưa dập bão vầy
Thương thay vóc dáng hao gầy
Rộng thênh áo lụa sau ngày tân hôn.
*
Bệnh ân ái dâm bôn không chết
Nhịp liên miên cũng hết hồn luôn
Chịu thì khổ nỗi lạ khuôn
Sướng thì lại sướng cái cuồng đê mê
Chèo khua mái đâu về đến bến
Nước dâng lên thương mến vô bờ
Vục tay vào chốn không ngờ
Thăm dò hang hốc, lần mò đỉnh cao
Con chim chẳng ngại luồn sâu
Bướm xinh bướm chẳng ngăn đâu bao giờ
Giờ thân ngà non tơ không thẹn
Tay chân ôm ấp vẹn tròn nhau
Ái nồng thắm ân tình sâu
Phong tình bén tiếng bện hơi nhau rồi
Hoang dã chẳng nỡ rời khoảng khắc
Không nề hà đâm nặng chọc nhanh
Đâu cần ve vuốt yến anh
Mây trôi mưa tạnh duyên lành cứ chơi
*
Đời mấy lúc được hồi cực khoái
Thú gối chăn đâu ngại Tây ta
Tình duyên ai biết gần xa
Bao nhiêu người ngọc cũng qua hết thời
Cầm Cơ một đám hồi son phấn
Tây Sơn đi chẳng bận quay về
Chị em ơi có lắng nghe
Lấy chồng cứ lấy một bè Tây Sơn