Cho đến nay, sử sách đều thừa nhận quốc hiệu đầu tiên của
nước ta là Văn Lang. Văn Lang tương ứng với thời kỳ các vua Hùng, và được gọi
chung là Thời đại Hồng Bàng. Do nguồn gốc dân tộc ta là Lạc Việt, nên sau này
có thành ngữ “Con Lạc cháu Hồng”, hay “dòng giống Lạc Hồng”…
Theo sách “Lĩnh Nam chích quái” thì nước Văn Lang đông giáp
Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm
Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu
Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân,
Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận
Theo bộ “Đại Việt Sử ký Toàn thư” thì Văn Lang có 15 bộ
tương tự như được nêu trong Lĩnh Nam chích quái nhưng tên gọi các bộ có khác
một ít: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương
Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức và
Văn Lang là bộ nơi vua đóng đô.
Như vậy, cả huyền thoại (Lĩnh Nam chích quái) lẫn sử thành văn
(Đại Việt sử ký toàn thư) đều thừa nhận và giới thiệu về nước Văn Lang. Tuy
nhiên, từ lâu tôi thường tự hỏi: Vậy thì
thực chất nước Văn Lang ở đâu?
Đặt ra câu hỏi ấy, có thể các bạn cho rằng tôi “ấm ớ”. Nhưng
hãy đọc lại đi, nước Văn Lang có địa giới cương vực như Lĩnh Nam chích quái
nói, tức là “bắc tới hồ Động Đình”, tức là gồm phần đất Nam Trung Quốc, bao gồm
Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tây, Phúc Kiến, Hồ Nam, Quý Châu và đảo Hải Nam
bây giờ của Trung Quốc.
Địa danh Động Đình hồ còn liên quan với địa danh gọi là Núi
Ngũ Lĩnh, đó là 5 ngọn núi chia Trung Hoa thành 2 khu vực Nam và Bắc. Ngũ Lĩnh cách Động Đình Hồ vài trăm
dặm về phía Nam .
Cho nên, sử cũ tự nhận phần đất của người Việt là Lĩnh Nam .
Sau này, cương vực có thay đổi, đến đời Triệu Đà lập nước
Nam Việt, thì phần biên giới nước Nam Việt có co lại, chỉ gồm đại bộ phận Quảng
Đông, Quảng Tây và Nam Quý Châu ngày nay (và Bắc Việt Nam ngày nay). Theo các
nhà sử học, đặc biệt là ông Trần Đại Sỹ đã đi điền dã tại Nam Trung Hoa, ông
khẳng định rằng, khởi nghĩa Hai Bà Trưng chính là xảy ra trên phần đất nước Nam
Việt cũ, lan lên cả phần đất giáp Hồ Động Đình, nơi địa giới của người Bách
Việt. Tại các tỉnh Nam Trung Hoa, đều có đền thờ Vua Bà chống quân Hán.
Tóm lại: Nước Văn Lang theo quan niệm sử Việt, là phần đất
phát tích của các bộ tộc Bách Việt, trong đó có bộ Văn Lang, mà thủ lĩnh là
Hùng vương đóng đô ở Phong Châu. Khi đó, Hùng vương là tộc trưởng hùng mạnh
nhất đã chinh phục và hàng phục các bộ tộc khác ở phía Nam núi Ngũ
Lĩnh (Trung Quốc). Âm vang của nước Văn Lang còn phản chiếu qua nước Nam Việt
của Triệu Đà, và cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng nhằm “phục quốc” dựng lại nước
Văn Lang. Các cụ tổ Việt Nam vẫn coi Triệu Đà là nhà nước đầu tiên của Việt
Nam. (Chú ý rằng: Cách dạy lịch sử từ trước đến nay có 2 sai phạm chính: 1/ Bỏ
qua nguồn gốc một thời nhà Triệu, từ đó khiến cho đại đa số học sinh học sử chỉ
lầm tưởng rằng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng chỉ
diễn ra ở Bắc Việt Nam. 2/ Nước Văn Lang không phải nhà nước cai quản
phần đất thuộc bộ Văn Lang. Bộ Văn Lang ở Phong Châu chỉ là 1 trong 15 bộ của
nước Văn Lang rộng lớn.
Hậu quả của việc diễn đạt lịch sử không chân thực, khiến cho
chúng ta không hiểu nổi mấy sự kiện sau: 1/ Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi,
câu mở đầu ghi rõ: “Từ Triệu, Đinh, Lê, Lý, Trần xây nền độc lập…” Nhà Triệu là
nhà nước cai quản phần đất Bắc Việt Nam ngày nay, đối kháng với nhà
Hán. 2/ Vua Quang Trung có lý để tính chuyện đòi đất Quảng Đông, Quảng Tây đối
với nhà Thanh 3/ Hai Bà Trưng hy sinh ở đâu? Chiếm 65 thành của nhà Hán ở đâu,
nếu chỉ có Bắc Việt Nam
sao có 65 thành…”
Ai là người “sợ” thuyết về nước Văn Lang và nước Nam Việt?
Dĩ nhiên là những nhà chính trị có đầu óc Đại Hán rất không muốn người Việt nào
nhận tổ tông mình xuất phát từ núi Ngũ Lĩnh, không muốn ai đi Quảng Châu mà lại
nghĩ đây là thủ đô xưa của nhà nước dân tộc Việt. Thực sự, do biến
thiên của lịch sử, mà các tộc người hùng mạnh đã không ngừng chinh phạt, mở
rộng bờ cõi, sáp nhập dân cư. Dân tộc Hán đã xâm nhập chiếm đất và đồng hóa nhiều dân tộc trong Bách Việt, đó là phần sự thật không thể chối cãi trong lịch sử của họ. Chỉ có Lạc Việt là tự hào đã giữ lại danh xưng Việt trong quốc hiệu của mình, tự hào là tộc Việt duy nhất còn tồn tại không bị Hán hóa đến mất tên.
2. Con người của nước
Văn Lang?
Theo sử liệu, nước Văn Lang tổ chức nhà nước có Lạc hầu, Lạc
tướng, quan địa phương Bồ Chính, có con gái vua gọi là Mỵ Nương, con trai vua
gọi là Lang (Quan Lang). Sản xuất chủ yếu là lúa nước, săn bắn, đi thuyền, đồ
sinh hoạt có cày, trống đồng, vũ khí là rìu, cung tên.
Điều đáng nói là sinh hoạt tinh thần: tục xăm mình, ăn trầu,
nhuộm răng đen, mẫu hệ và thờ cúng tổ tiên.
Tục xăm mình còn được sử thành văn ghi chép, đến thời Trần
các vua đều xăm mình, đến Trần Anh tông mới bỏ. Ăn trầu, nhuộm răng đen thì thế
hệ U60 còn nhìn thấy các cụ ăn trầu nhuộm răng. Mẫu hệ thì mất sớm nhất, theo
làn sóng Hán hóa, do Trung Quốc đô hộ. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là một minh
chứng về một thời mẫu hệ còn sót lại. Chắc rằng, ngay cả ở nước Nam Việt, thì
nhà nước theo phụ hệ kiểu phong kiến Hán, nhưng dân chúng vẫn là mẫu hệ. Như
vậy, cho đến nay, chỉ còn lại tục thờ cúng tổ tiên là sót lại, trong sinh hoạt
tinh thần của người Việt cổ. Việc thờ cúng tổ tiên cũng kèm theo tập quán thờ
cúng các thần thiên nhiên, đa thần giáo.
Trích Lĩnh Nam chích quái: "Hồi quốc sơ, dân không đủ
đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu,
lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá,
ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất
được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói.
Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có
người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu
cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm
đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân."
Đó là ghi chép của một người Nho học soạn sách Lĩnh Nam chích quái,
theo quan điểm Nho Trung Quốc nhìn về tập tục của người Việt cổ. Đọc đoạn này,
ta có thể hình dung ra người Việt cổ của nước Văn Lang: mặc quần áo bằng vỏ
cây, dùng gạo nếp nương, cất rượu nếp, ở nhà sàn, cắt tóc ngắn. Chi tiết “giã
cối làm lệnh”, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là động tác đánh trống đồng,
dùng chày. Còn “việc hôn thú lấy gói đất làm đầu” thì ngày nay còn cãi nhau xem
đó là cái gì… Nhiều bài báo cho biết, vùng Vĩnh Phúc vẫn còn những làng có tục
ăn đất, có thể đó là chìa khóa giải mã việc “hôn thú lấy gói đất làm đầu”
chăng?
Bài nào của a viết e cũng thấy hay lắm, kiến thức thật sâu rộng. Ngưỡng mộ thía.
Trả lờiXóa